Monday, December 5, 2011

Plato - Republic (10)


Plato
The Republic 

(Πλάτων - Πολιτεία)




Quyển X

Tóm tắt 

Đến đây, Socrates đã hoàn tất luận chứng chính của The Republic, ông đã định nghĩa công lý và cho thấy nó là đáng giá, nghĩa là nên theo đuổi và thực hiện cho polis và những công dân của nó. Ông quay trở lại câu hỏi đã tạm hoãn liên quan đến thơ ca về con người. Trong một động tác rất ngạc nhiên, khá  bất ngờ, ông xua đuổi những nhà thơ khỏi thành phố. Ông có ba lý do để xem những nhà thơ là bất thiện và nguy hiểm. Đầu tiên, họ giả vờ như biết về tất cả những loại sự vật, nhưng họ thực sự không biết gì cả. Thường được rộng rãi xem họ là có kiến ​​thức về tất cả những gì họ viết về chúng, nhưng trong thực tế, họ không biết. Những điều mà họ tiếp cận với vốn không thể đưa đến sự hiểu biết thực: chúng là những hình ảnh, khác xa với những gì là thật nhất. Bằng cách trình bày những cảnh tượng hết sức xa vời với sự thực, những nhà thơ, làm lầm lạc, làm hư hỏng những linh hồn người đọc, quay chúng đi xa khỏi cái thực nhất nhưng về cái ít thực nhất.

Tệ hơn nữa, những hình ảnh nhà thơ miêu tả không bắt chước phần tốt đẹp của linh hồn. Phần hợp lý của linh hồn là yên tĩnh, ổn định, và không dễ dàng để bắt chước hoặc thấu hiểu. Nhà thơ bắt chước những phần tồi tệ nhất - những khuynh hướng vốn làm cho nhân cách  dễ dàng bị kích động và màu mè. Thơ ca thường tự nhiên kêu gọi đến những phần tồi tệ nhất của linh hồn, và khơi dậy, nuôi dưỡng, và làm mạnh lên những yếu tố bản năng này trong khi chuyển năng lực sống mất khỏi phần lý trí.



Thơ làm hư hỏng ngay cả những linh hồn tốt đẹp nhất. Nó dối gạt chúng ta đi đến thông cảm với những buồn đau quá đáng, những khát dục bất xứng, những cười nhạo những cơ bản. Nó thậm chí còn thúc dục chúng ta đắm mình xúc cảm những xúc động của những kẻ khác, hay nói như vẫn nói thông thường – thương vay khóc mướn. Chúng ta nghĩ rằng không có chi xấu hổ khi mình miệt mài trong những cảm xúc này vì chúng ta đang thỏa thích cùng chúng với tư cách nhân vật hư cấu và không có liên quan đến đời sống thực của chúng ta. Tuy nhiên, vui thú chúng ta cảm thấy thỏa thích khi tận hưởng những cảm xúc trong đời sống khác được chuyển dịch vào đời sống của chúng ta. Một khi những phần này của chính chúng ta đã được nuôi dưỡng và củng cố theo cách này, chúng phát triển mạnh trong chúng ta khi chúng ta ứng phó với chính đời chúng ta. Đột nhiên chúng ta đã trở thành người  thuộc những loại kỳ cục, lố bịch mà ta đã thấy trên sân khấu, hoặc nghe ngâm kể đến trong sử thi.

Ác cảm với những nguy hiểm rõ ràng của thơ ca, Socrates hối tiếc phải trục xuất những nhà thơ. Ông cảm thấu đau xót trước sự phải hy sinh thẩm mỹ, và nói rằng ông sẽ vui vẻ để cho phép họ trở lại thành phố nếu có ai có thể trình bày một biện luận bào chữa cho họ.

Socrates sau đó phác vẽ một bằng chứng ngắn về sự bất tử của linh hồn. Về cơ bản, bằng chứng là như thế này: X chỉ có thể bị hủy hoại bởi những gì là xấu cho X. Những gì là xấu cho linh hồn thì bất công và là những xấu tật khác. Tuy nhiên, bất công và những xấu tật khác rõ ràng là không phá hủy linh hồn, hay những bạo chúa và những người khác giống vậy, vì nếu thực thế họ đã không thể tồn tại lâu dài. Thế nên, không có gì có thể tiêu diệt được linh hồn, và linh hồn là bất tử.

Sau khi Socrates đã trình bày chứng minh này, ông đặt xuống lập luận cuối cùng của ông ủng hộ công lý. Lập luận này, dựa trên huyền thoại Er, kêu gọi đến những phần thưởng vốn công chính sẽ nhận được trong thế giới bên kia. Theo như truyền thuyết, một chiến binh tên là Er bị giết trong trận chiến, nhưng không thực sự chết. Ông được gửi lên trời, và được cho xem tất cả những gì xảy ở đó, như vậy để ông có thể trở về mặt đất và tường thuật những gì ông đã thấy. Ông quan sát một hệ thống của thuyết mạt thế - cho rằng khi thế giới tận cùng, sẽ có thưởng hiền phạt dữ - trong đó đức hạnh được khen thưởng, đặc biệt là sự khôn ngoan. Trong chu trình 1000 năm, người ta có thể hoặc được thưởng trên trời, hoặc bị trừng phạt trong địa ngục, vì tội lỗi hoặc những việc làm tốt đẹp của đời sống họ. Họ sau đó được mang lại cùng với nhau trong một khu vực chung, và được cho lựa chọn đời sống tiếp theo của họ, hoặc động vật hoặc con người. Đời sống mà họ chọn sẽ xác định cho dù họ được khen thưởng hoặc bị trừng phạt trong chu kỳ tiếp theo. Chỉ những ai là người đã sống triết lý khi còn sống, bao gồm cả Orpheus, người đã lựa chọn được tái sinh như một con thiên nga, mới nắm bắt hiểu thấu được sự tài tình để làm thế nào lựa chọn đời sống công chính. Tất cả mọi người khác lăn lóc giữa hạnh phúc và đau khổ trong mỗi chu kỳ.

Phân tích

Trong Quyển X, cuối cùng Plato đem giáo dục dựa trên triết lý đối đầu thẳng với giáo dục truyền thống dựa trên thơ ca. Plato đã chứng minh triết học và triết gia là đúng và bây giờ ông cho thấy chúng trong mối quan hệ với những kình địch của chúng - những người hiện đang nghĩ là khôn ngoan và hiểu biết nhất - những nhà thơ.

Huyền thoại, khi gọi đến thưởng và phạt, trình bày một lập luận dựa trên những động cơ Plato trước đó đã bác bỏ. Glaucon và Adeimantus đã đặc biệt yêu cầu Socrates ca ngợi công lý trên chính tự thân công lý, không dựa trên những hệ quả, như những yếu tố này. Tại sao bây giờ Plato lại làm chính điều đó?

Allan Bloom cho rằng sự bao gồm của huyền thoại này được kết nối với sự khác biệt giữa đạo đức triết học và đạo đức công dân. Đạo đức triết học là loại đức hạnh triết gia sở hữu, và loại đức hạnh này khác với đức hạnh của công dân bình thường. Cho đến nay, theo Bloom, Plato đã chỉ cho thấy tự thân đạo đức triết học là xứng đáng. Ông đã vẫn chưa chỉ ra rằng đạo đức công dân cũng là xứng đáng. Vì Glaucon và Adeimantus và vô số người khác không có khả năng đạo đức của triết học, ông phải cung cấp cho họ một số lý do để theo đuổi loại đức hạnh của riêng mình. Với sự tương phản giữa đạo đức triết học và đạo đức công dân trong tâm trí, Plato đã mô tả chu kỳ ngàn năm nói trên, trong đó thưởng và phạt cứ mãi mãi đi theo sau đời công chính hay bất công.

Tuy nhiên, trên sự hiểu biết của chúng ta về những gì làm cho bất kỳ đức hạnh nào có giá trị hay không, sự kết nối của nó với những thể dạng - Plato đã chứng minh đầy đủ giá trị của cả hai loại đức hạnh. Đức hạnh triết học có thể là đáng giá hơn vì nó không chỉ bắt chước những thể dạng (những lý tưởng), nhưng nhằm đến và phối ngẫu với chúng, nhưng đức hạnh công dân là đáng giá vì nó liên quan đến việc đưa những thể dạng vào đời sống của con người bằng cách thiết định trật tự và hòa hợp trong linh hồn của con người. Tuy nhiên, Bloom, cũng có một giả thuyết đáng tin cậy khác về lý do tại sao Plato bao gồm huyền thoại Er, và giải thích này ứng hợp khéo léo với sự hiểu biết của chúng ta về giá trị công lý. Huyền thoại Er, Bloom giải thích, minh họa một lần nữa sự cần thiết của triết học. Những đức hạnh công dân một mình là không đủ. Chỉ có những triết gia mới biết làm thế nào để lựa chọn đời sống mới – chọn kiếp sau - cho đúng, vì chỉ có họ mới hiểu được linh hồn và hiểu những gì làm cho đời sống thành tốt và xấu. Những người khác, những người thiếu hiểu biết này, đôi khi chọn đúng và đôi khi chọn sai. Họ dao động qua lại giữa những kiếp đời tốt đẹp và những kiếp đời khốn khổ. Vì mỗi linh hồn là chịu trách nhiệm về lựa chọn đời sống riêng của mình, dẫn đến mỗi người phải chịu trách nhiệm trọn vẹn với tư cách sống công chính hay bất công. Nếu như phần đông chúng ta nghiêng sang như sẵn sàng chọn bất công, đó là vì sự thiếu hiểu biết của chúng ta về những gì làm cho một linh hồn là công chính hay bất công. Thiếu hiểu biết – hay tạm mượn một nội dung không hoàn toàn của Plato - Vô Minh - sau đó, mới đích thực là tội lỗi duy nhất, và triết học là phương thuốc chữa trị duy nhất.



QUYỂN 10
(595a-621c)


SOCRATES kể tiếp tục:

SOCRATES: Bạn biết rằng có rất nhiều những điều khác về thành phố của chúng ta làm cho tôi nghĩ rằng chúng ta đã hoàn toàn đúng trong việc thành lập nó như chúng ta đã làm, nhưng tôi đặc biệt suy nghĩ về thơ khi tôi nói thế.
GLAUCON: Điều gì về nó?
SOCRATES: Sự từ chối của chúng ta không chấp nhận bất kỳ nào của nó là mô phỏng. Thật vậy, sự cần thiết để không thừa nhận nó có vẻ thậm chí còn rõ ràng hơn, theo quan điểm của tôi, khi giờ đây chúng ta đã phân biệt những yếu tố khác nhau trong linh hồn.
GLAUCON: Ông định nói gì?
SOCRATES: Giữa chúng ta – vì bạn sẽ không tố cáo tôi với những nhà thơ bi thảm [1], hoặc bất kỳ những người mô phỏng bắt chước nào khác - tôi nghĩ rằng tất cả những thơ loại như thế đều đúng là làm hư hỏng não thức của những người nghe chúng, những người không có kiến thức về những gì nó thực là, như là một thứ thuốc để chống lại nó.
GLAUCON: Có những gì trong đầu ông khi ông nói thế?
SOCRATES: Tôi sẽ phải nói với bạn, mặc dù ngay cả có một loại tình yêu tôn kính tôi đã có với Homer [2] từ khi còn nhỏ, khiến tôi ngần ngại để nói. Bạn thấy đấy, ông dường như đã là thày dạy và lãnh đạo đầu tiên của tất cả những nhà viết bi kịch hay. Dẫu thế đi nữa, một người không nên được tôn vinh nhiều hơn sự thật. Thế nên, như tôi đã nói, tôi sẽ phải nói cho bạn biết.
GLAUCON: Dĩ nhiên.
SOCRATES: Hãy nghe, sau đó - hay tốt hơn, hãy trả lời câu hỏi của tôi.
GLAUCON: Xin cứ hỏi đi.
SOCRATES: Bạn có thể cho tôi biết nói tổng quát sự mô phỏng, bắt chước là gì? Bạn thấy đấy, tôi không hoàn toàn hiểu nó đáng lẽ ra là những gì.
GLAUCON: Thế nên, có khả năng là tôi sẽ hiểu?
SOCRATES: Sẽ không có gì lạ ở đó, vì có rất nhiều sự vật người cận thị nhìn thấy trước khi người có mắt nhìn sắc bén!


Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất
(Nov/2011)




[1] Gần nhất với Plato là Aristotle, trong Poetics của Aristotle- ông phân định ba thể loại thơ – thơ hùng, thơ khôi hài, và thơ bi thảm. (the epic, the comic, and the tragic – hùng ca, bi ca và hài ca).
Những nhà mỹ học phương Tây sau đó lại phân thành : thơ anh hùng, lịch sử;  thơ trữ tình, và thơ kịch – (epic, lyric, and dramatic poetry), đặt thơ bi thảm và thơ khôi hài xuống thành hai thể phụ của thơ kịch.
[2] Chú ý đến nhà thơ vĩ đại Socrates nhắc ở đây, tác giả IliadOdyssey; như thế sẽ giúp chúng ta hiểu hơn –  “thơ” là gì, và ai mới được gọi là “người làm thơ”, theo quan điểm của ông. Về phần hai tập trường ca  - với người Hylạp, chúng không chỉ là thơ, nhưng còn là sử, là triết lý dưới áo huyền thoại,  hay đúng hơn là bách khoa toàn thư của họ. Một thí dụ vẫn nhắc là hoàng đế Alexander the Great ngủ với The Iliad dưới gối.