Saturday, April 19, 2025

Hume – Những Đàm Thoại Về Tôn Giáo Tự Nhiên (05)

Những Đàm thoại về Tôn giáo Tự nhiên

(Dialogues concerning Natural Religion)

David Hume

( ← ... tiếp theo )

 

 



PHẦN V

 

Tóm Tắt

 

Trong phần này, Philo cho thấy một vấn đề khác với luận chứng thiết kế: mọi tiến bộ khoa học đều làm cho luận chứng này kém hợp lý hơn qua việc cho chúng ta thấy vũ trụ hoàn toàn độc đáo và đáng kinh ngạc như thế nào. Những khám phá khoa học này cho thấy vũ trụ không giống bất kỳ gì con người từng tạo ra. Và nếu chúng ta khăng khăng đưa ra một so sánh giữa vũ trụ và những tạo vật từ con người, thì nguyên nhân của vũ trụ phải rất khác so với não thức con người.

 

Sau khi nêu ra điểm nhỏ này, Philo bắt đầu dòng tấn công chính thứ ba của ông. Ông lập luận rằng không có đủ bằng chứng trong tự nhiên để hỗ trợ cho kết luận vốn người theo thuyết tin có gót duy nghiệm muốn đưa ra. Người theo thuyết tin có gót duy nghiệm, là một tín đồ tôn giáo, hy vọng có thể suy ra từ luận chứng thiết kế rằng Gót là vô hạn, toàn hảo, phi vật chất (rằng ngài không được tạo ra từ vật chất vật lý), và là đấng thiêng liêng duy nhất. Nhưng xét đến bằng chứng vốn ông phải tiếp tục, ông không thể kết luận được bất kỳ điều nào trong số những điều này. Khi lý luận từ kết quả đến nguyên nhân, chúng ta chỉ có quyền suy ra những gì bảo đảm từ kết quả quan sát đượckhông hơn.

 

Đầu tiên, chúng ta không thể kết luận từ bằng chứng có sẵn rằng Gót có được những thuộc tính vô hạn, bởi vì, theo như chúng ta có thể thấy từ quan sát, bản thân vũ trụ không phải là vô hạn. Dựa trên mọi sự vật việc chúng ta có thể thấy, không có lý do gì để tin rằng vũ trụ là vô hạn về phạm vi, thời gian hoặc sự toàn hảo – vậy làm sao chúng ta có thể chính đáng tuyên bố rằng nguyên nhân của nó là vô hạn? Nếu kết quả là hữu hạn, chúng ta không có cơ sở để suy ra nguyên nhân vô hạn. Do đó, luận chứng thiết kế không bảo đảm tin tưởng vào một vị Gót vô hạn.

 

Thứ hai, chúng ta ngay cả không thể kết luận từ bằng chứng rằng Gót là toàn hảo hữu hạn. Theo những gì chúng ta biết, vũ trụ của chúng ta vẫn có thể tốt lành hơn nhiều so với tình trạng hiện tại; vũ trụ của chúng ta ngay cả có thể còn là một vũ trụ tồi tệ, so với những gì nó có thể là. Và do đó, nhà thiết kế vũ trụ hiện tại của chúng ta có thể là một nhà thiết kế tồi tệ. Hơn nữa, ngay cả khi chúng ta biết vũ trụ của chúng ta là một vũ trụ toàn hảo tuyệt vời, điều đó vẫn không cho phép chúng ta kết luận rằng nhà thiết kế của chúng ta là một nhà thiết kế toàn hảo. Ông có thể đã may mắn với dự án này, hay có thể ông đã sao chép nó từ những nhà thiết kế khác, hay nếu không nữa thì đây có thể là một cố gắng thành công cuối cùng sau một loạt những thất bại. Một kết quả toàn hảo không nhất thiết hàm ý một nguyên nhân toàn hảo.

 

Hơn nữa, bằng chứng chúng ta có không ủng hộ ý tưởng rằng chỉ có một Gót. Không có gì buộc chúng ta phải kết luận rằng việc tạo ra vũ trụ là công trình của một nhà thiết kế duy nhất. Ngược lại, nếu chúng ta coi trọng sự tương tự giữa vũ trụ và những công trình nhân tạo, chúng ta có lý do chính đáng để nghĩ rằng đó là một nỗ lực chung. Nhiều máy móc và hệ thống quy mô lớn được tạo ra bởi những nhóm người, không phải cá nhân. Tương tự như vậy, vũ trụ có thể đã được thiết kế bởi một nhóm những vị gót, mỗi người chịu trách nhiệm cho những bộ phận khác nhau. Nếu đúng như vậy, thì khả năng của từng vị gót riêng lẻ sẽ làgiới hạn và trình độ kỹ năng cần có của bất kỳ vị gót nào trong số họ sẽ giảm đi rất nhiều. Luận chứng thiết kế có thể dễ dàng dẫn chúng ta đến việc đưa ra một nhóm những vị gót trung bình, hoặc thậm chí là kém cỏi, cũng như đưa ra một vị gót toàn năng duy nhất.

 

Cuối cùng, nếu chúng ta thực sự thúc đẩy sự tương tự giữa Gót và những con người như nhà thiết kế, chúng ta thậm chí có thể suy ra rằng não thức của Gót tồn tại trong một cơ thể. Rốt cuộc, mọi nhà thiết kế thông minh mà chúng ta từng biết đều có một não thức gắn liền với một cơ thể vật chất. Vậy tại sao lại cho rằng Gót là phi vật chất? Tại sao không tưởng tượng rằng những vị gót có cơ thể? Tại sao không nghĩ rằng họ là phàm nhân, hoặc họ cũng sinh sản, hoặc họ giống con người hơn nữa? Phép loại suy này, nếu được xem xét nghiêm trang, sẽ mở ra cánh cửa cho đủ loại hàm ý về thuyết nhân hóa.

 

Tuy nhiên, Cleanthes không hiểu thấu được sức mạnh của phản bác này và vẫn không hề nao núng trước chứng minh của Philo. Trong thực tế, ông coi đó là một dạng nhượng bộ: ít nhất thì Philo cuối cùng cũng nhìn nhận rằng vũ trụ rõ ràng là được thiết kế. Nhưng tất nhiên, Philo không nhìn nhận điều này chút nào. Ông chỉ lập luận rằng ngay cả khi chúng ta có thể suy ra một nhà thiết kế, chúng ta cũng không thể suy ra suy ra loại nhà thiết kế vốn người theo thuyết tin có gót muốn suy ra – không phải một vị gót vô hạn, toàn hảo, phi vật chất và duy nhất.

 

Phần V

 

D5.1, KS165

Nhưng để cho bạn thấy còn nhiều bất tiện hơn, Philo nói tiếp, trong thuyết Nhân hóa của bạn; hãy làm một khảo duyệt mới về những nguyên lý của bạn. Những hiệu quả giống nhau chứng minh những nguyên nhân giống nhau. Đây là lập luận duy nghiệm; và điều này, bạn cũng nói, là lập luận gót học duy nhất dựa trên kinh nghiệm. Bây giờ chắc chắn rằng, những hiệu quả được quan sát càng giống nhau và những nguyên nhân càng giống nhau, được suy ra, thì lập luận càng mạnh hơn. Mọi sự khác biệt, ở cả hai phía, đều làm suy yếu kết luận và khiến lập luận kém thuyết phục hơn. Bạn không thể phủ nhận nguyên lý đó – và do đó, bạn không nên bác bỏ những hậu quả phát sinh từ nó.

 

D5.2, KS 165-6

Tất cả những khám phá mới trong thiên văn học, chứng minh sự vĩ đại và tráng lệ vô cùng của những công trình của Tự nhiên, đều là rất nhiều biện luận thêm vào cho một Đấng thiêng liêng, theo như hệ thống Gót học đích thực – tức là quan điểm triết học cổ điển về Gót là vô hạn, toàn hảo, phi vật chất, toàn tri và hoàn toàn siêu việt. Nhưng theo giả thuyết Gót học duy nghiệm của bạn – tìm cách lý giải sự hiện hữu và bản chất của Gót từ kinh nghiệm, đặc biệt là từ thiết kế và trật tự được quan sát thấy trong tự nhiên – những khám phá này trở thành rất nhiều phản đối, vì chúng đẩy những hậu quả được quan sát xa hơn nữa khỏi mọi sự tương đồng với những hậu quả của nghệ thuật và sự chế tạo của con người. Bởi vì nếu Lucretius – ngay cả trong hệ thống thế giới cũ, tức là vũ trụ học với quả đất là trung tâm và hữu hạn thời cổ – đã có thể đã thốt lên:

 

Ai có thể cai quản toàn bộ vũ trụ bao la?

Ai có sức mạnh để nắm giữ và dẫn dắt những thế lực hùng mạnh của thiên nhiên?

Ai có thể cùng lúc xoay chuyển tất cả những tầng trời,

Và thắp sáng mọi vùng đất màu mỡ bằng ngọn lửa của bầu trời?

Và ai có thể hiện diện ở mọi nơi, mọi lúc?

 

Nếu Tully [6]  ước định lý luận này là tự nhiên đến mức đưa nó vào miệng của người theo thuyết Epicurus của ông. Với đôi mắt nào của não thức, Plato của bạn có thể nhìn thấy công trình vĩ đại đó, trong đó ông tuyên bố thế giới được Gót xây dựng và tạo hình? Tiến trình đó là gì? Những dụng cụ nào? Những đòn bẩy nào? Những máy móc nào? Ai là những người lao động cho một nhiệm vụ lớn như vậy? Và làm sao không khí, lửa, nước và đất có thể tuân theo và làm theo ý muốn của kiến ​​trúc sư? Nếu lập luận này, tôi nói, có sức mạnh nào đó trong những thời đại trước; thì nó phải lớn hơn bao nhiêu vào thời điểm hiện tại; khi ranh giới của Tự nhiên được mở rộng vô hạn, và một cảnh tượng tráng lệ như vậy được mở ra cho chúng ta? Lại còn phi lý hơn nữa để hình thành ý tưởng của chúng ta về một nguyên nhân vô hạn như vậy từ kinh nghiệm của chúng ta về những sản phẩm hạn hẹp của sự thiết kế và phát minh của con người. [1]

 

D5.3, KS166

Những khám phá được kính hiển vi thực hiện, khi chúng mở ra một vũ trụ hoàn toàn mới thu nhỏ, vẫn là những phản đối, theo bạn; nhưng theo tôi, chúng là những lập luận bổ sung. Chúng ta càng đẩy xa hơn những khảo cứu của chúng ta theo kiểu này, chúng ta càng suy ra rằng nguyên nhân phổ quát của của tất cả là rất khác biệt so với loài người, hay so với bất kỳ đối tượng nào của kinh nghiệm và quan sát của con người.

 

D5.4, KS166

Và bạn nói gì về những khám phá trong giải phẫu học, hóa học, thực vật học? – – – Chắc chắn đây không phải là những phản đối, Cleanthes trả lời: chúng chỉ khám phá những trường hợp mới của nghệ thuật thiết kế và tài khéo sáng tạo giống con người. Nó vẫn là hình ảnh của não thức phản chiếu trên chúng ta từ vô số những đối tượng trong tự nhiên, Thêm vào đó, một não thức giống như con người, Philo nói. Tôi không biết có não thức nào khác, Cleanthes trả lời. Và càng giống càng tốt, Philo nhấn mạnh. Chắc chắn rồi, Cleanthes nói.

 

D 5.5, KS 166

Bây giờ, Cleanthes, Philo nói, với vẻ mặt nhanh nhẹn và đắc thắng, hãy ghi nhớ những hậu quả. Thứ nhất, bằng phương pháp lý luận này, bạn từ bỏ tất cả tuyên đòi về vô hạn trong bất kỳ thuộc tính nào của Đấng thiêng liêng. Vì như nguyên nhân phải chỉ tương xứng với kết quả, và kết quả, trong chừng mực nằm trong nhận thức của chúng ta, không phải là vô hạn; chúng ta có những giả định gì, dựa trên những giả định của bạn, để gán thuộc tính đó cho Đấng thiêng liêng? Bạn vẫn sẽ khăng khăng rằng, bằng loại bỏ ngài nhiều như thế khỏi những tương đồng với những sinh vật con người, chúng ta rơi vào giả thuyết tùy tiện nhất, và đồng thời làm suy yếu mọi bằng chứng về sự hiện hữu của ngài.

 

D5.6, KS166-7

Thứ hai, theo lý thuyết của bạn, bạn không có lý do nào vững chắc để gán sự toàn hảo cho Đấng thiêng liêng – ngay cả không nằm trong giới hạn của một năng lực hữu hạn – hay để cho rằng ngài không có bất kỳ lỗi lầm, sai sót hay không nhất quán trong những công trình của ngài. Có nhiều sự bất thường khó hiểu và những khiếm khuyết rõ ràng trong thế giới tự nhiên – những đặc điểm mà nếu chúng ta bắt đầu với giả định trước về một tác giả toàn hảo được biết đến tiên nghiệm (tức là chỉ qua lý trí, không tùy thuộc vào kinh nghiệm), có thể dễ dàng bị bác bỏ chỉ là những khiếm khuyết có vẻ bề ngoài, chỉ là những sản phẩm của sự hiểu biết hạn chế của con người, không thể thấu hiểu được toàn bộ mạng lưới những quan hệ vô hạn. Nhưng theo phương pháp lý luận duy nghiệm của bạn, những khó khăn này không còn rõ ràng nữa nhưng là thực tế; và người ta ngay cả có thể bị cám dỗ để trích dẫn chúng như những thí dụ khác về sự giống nhau với nghệ thuật và sự sắp đặt của con người – với tất cả những khiếm khuyết và hạn chế của nó. Ít nhất, bạn phải nhìn nhận rằng, từ quan điểm hạn chế và phiến diện, chúng ta không thể nói liệu hệ thống này có chứa bất kỳ khiếm khuyết sâu xa hay đáng khen ngợi, đặc biệt là nếu so sánh với những thế giới có thể có khác – hay ngay cả với những thế giới có thực khác. Một người nông dân, nếu được đọc Aeneid cho nghe, có thể tuyên bố rằng nó hoàn toàn không có lỗi lầm, hoặc xếp nó vào hàng ngũ thành tựu văn học của con người một cách chính xác không – người này, người chưa bao giờ nghe hoặc đọc bất kỳ công trình nghệ thuật nào khác?

 

D 5.7, KS 167

Nhưng ngay cả khi thế giới này là sản phẩm toàn hảo nhất có thể tưởng tượng được, thì vẫn không chắc chắn liệu tất cả những tuyệt vời của nó có thể vững chắc được gán cho một người tạo ra nó hay không. Nếu chúng ta xem xét một con tàu, chúng ta phải hình thành một ý tưởng cao cả như thế nào về sự khéo léo của người thợ mộc, người đã đóng khung một cỗ máy phức tạp, hữu ích và đẹp đẽ như vậy? Nhưng chúng ta ngạc nhiên biết bao khi biết rằng người thợ này là một người chậm hiểu, tối dạ, chỉ lặp lại những phương pháp đã được thiết lập – phương pháp được truyền qua nhiều thế hệ, hoàn chỉnh dần sau nhiều thử nghiệm, sai lầm, với những sửa chữa, cân nhắc bàn luận và tích lũy hiểu biết của nhiều thời đại. Tương tự như vậy, vô số thế giới có thể đã bị làm hỏng, và loại bỏ trong suốt thời gian vĩnh cửu, trước khi đến được hệ thống hiện tại này. Nhiều công sức có thể đã bị lãng phí, nhiều thử nghiệm đã thất bại và chỉ qua quá trình hoàn chỉnh chậm rãi và liên tục – kéo dài trong vô số thời đại – thì tài ba khéo léo để tạo ra thế giới mới đến được trạng thái hiện tại. Khi nói đến những vấn đề như thế này, ai có thể nói được sự thật nằm ở đâu? Ai có thể đoán được điều gì có nhiều phần đã xảy ra, với vô số giả thuyết có thể có vốn chúng ta có thể đưa ra – và với số lượng ngay cả còn lớn hơn chúng ta có thể tưởng tượng?

 

D5.8, KS167-8

Và Philo tiếp tục, bạn có thể đưa ra lập luận nào có thể có – dựa trên giả thuyết của riêng bạn – để chứng minh rằng Đấng Tối cao là một không phải nhiều? Rốt cuộc, nhiều người thường hợp tác để xây dựng một ngôi nhà hoặc một con tàu, để thành lập một thành phố hoặc để tổ chức một chính phủ. Vậy tại sao nhiều vị gót không cùng nhau làm việc để thiết kế và xây dựng vũ trụ? Điều đó chẳng phải sẽ khiến sự loại suy của bạn với những vấn đề của con người trở nên gần gũi hơn sao? Và bằng cách phân chia công việc cho một số vị gót, chúng ta có thể thu hẹp phạm vi quyền năng hoặc kiến ​​thức cần thiết của mỗi vị – do đó tránh được nhu cầu gán trí thông minh thống nhất, to lớn hoặc toàn năng cho một vị gót duy nhất, điều mà theo lý luận của riêng bạn, chỉ làm suy yếu lập luận về sự hiện hữu của vị gót đó. Và nếu con người ích kỷ, có khiếm khuyết đôi khi có thể hợp tác thành công trong một dự án duy nhất, thì những vị gót hoặc tinh thần- những sinh vật mà chúng ta tưởng tượng là tiến bộ, toàn hảo hơn nhiều – có thể dễ dàng làm việc hòa hợp hướng tới một thiết kế chung hơn bao nhiêu?

 

D 5.9, KS 168

Đúng là nhân lên những nguyên nhân, nhưng không cần thiết, sẽ đi ngược lại những nguyên lý của triết học thực sự; nhưng nguyên lý này không áp dụng cho trường hợp hiện tại. Nếu một vị gót trước đó đã được lý thuyết của bạn chứng minh là có được tất cả những thuộc tính cần thiết để tạo ra vũ trụ, tôi đồng ý rằng sẽ không cần phải đưa ra một vị gót khác (mặc dù không phải là vô lý khi làm như vậy). Nhưng trong khi nó vẫn còn là một câu hỏi bỏ ngỏ – liệu tất cả những thuộc tính này có hợp nhất trong một chủ thể hay phân tán giữa một số hữu thể độc lập – thì chúng ta có thể dùng hiện tượng nào trong tự nhiên để giải quyết tranh luận? Khi chúng ta nhìn thấy một vật được nâng lên trên một bàn cân, chúng ta chắc chắn rằng có một trọng lượng đối trọng bằng với nó ở bàn cân đối diện, ngay cả khi nó bị che khuất tầm nhìn. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể nghi ngờ liệu quả cân đó có phải là một khối rắn duy nhất, hay được tạo thành từ một số vật thể riêng biệt. Và nếu trọng lượng cần thiết vượt quá bất kỳ trọng lượng nào mà chúng ta từng thấy ở một vật thể duy nhất, thì việc xem xét với lựa chọn sau trở nên có nhiều phần xảy ra và tự nhiên hơn. Rốt cuộc, một hữu thể thông minh với quyền lực và khả năng to lớn, như là cần thiết để tạo ra vũ trụ – hoặc dùng ngôn ngữ của triết học thời cổ, một động vật kỳ diệu như vậy – vượt quá tất cả loại suy hay ngay cả hiểu biết của con người.

 

D5.10, KS168

Nhưng hãy suy nghĩ thêm một chút, Cleanthes. Con người là trần tục, và chúng ta tiếp tục duy trì chủng loại của chúng ta bằng sinh sản – giống như mọi loài động vật khác. Như nhà thơ Milton đã nói, hai giới tính nam và nữ đem cho sự sống, làm thế giới trở nên sống động [2]. Vậy tại sao chúng ta lại bỏ qua sự thật cơ bản này khi tưởng tượng về những vị gót – đặc biệt là nếu chúng ta tin vào nhiều vị gót có quyền năng giới hạn? Nếu chúng ta chấp nhận điều đó,, chúng ta thực sự chỉ đang quay trở lại với những câu chuyện thần thoại cũ, trong đó những vị gót được sinh ra, có con cái và sống như những gia đình vũ trụ đông đảo trên bầu trời [3].

 

D 5.11, KS 168

Và tại sao không trở thành một người hoàn toàn theo thuyết Nhân hóa? nói thẳng ra rằng Gót – hay những vị gót – có cơ thể thực sự, với mắt, tai, miệng và mọi sự vật việc khác, giống như chúng ta? Về cơ bản, đó là những gì triết gia thời cổ Epicurus lập luận: vì chúng ta chỉ thấy lý trí hoặc trí thông minh ở con người, nên những vị gót cũng phải trông giống như con người. Nhưng Cicero, một nhà tư tưởng người Rômađã chế giễu ý tưởng này – ông cho rằng thật nực cười khi cho rằng những vị gót phải trông giống chúng ta chỉ vì chúng ta có những đặc giống vậy. Tuy nhiên, bây giờ, dựa trên lý luận của bạn, ý tưởng vốn Cicero chế giễu này bắt đầu nghe giống như triết học vững chắc [4]

 

D5.12, KS 168-9

Nói tóm lại, Cleanthes, một người theo giả thuyết của bạn, có lẽ có thể khẳng định hay phỏng đoán rằng vũ trụ, đôi khi, phát sinh từ một thứ gì đó giống như thiết kế: nhưng ngoài vị trí đó ra, người này không thể xác định được một trường hợp đơn lẻ nào, và sau đó bị bỏ lại để chữa mọi điểm trong gót học của người này, bằng sự phóng túng tối đa của trí tưởng tượng và giả thuyết. Thế giới này, theo những gì người này biết, có thể có khiếm khuyết và không toàn hảo so với một tiêu chuẩn cao hơn. Có thể đó chỉ là nỗ lực thô sơ đầu tiên của một vị gót trẻ tuổi nào đó, người sau đó đã từ bỏ nó, xấu hổ về thành tích khập khiễng của mình. Có lẽ đó là tác phẩm của một vị gót thấp kém hơn, bị những hữu thể quyền năng hơn coi thường – những vị gót có kiến ​​thức hoặc khả năng vượt trội, chế giễu sự sáng tạo không toàn hảo. Thậm chí đó có thể là sự sáng tạo của một vị gót già nua, hay quên, và kể từ khi ông mất đi, thế giới đã tự vận hành, chỉ được động lực ban đầu vốn ông đã đưa ra hướng dẫn.Bạn có lý khi đưa ra những dấu hiệu kinh hoàng, Demea, về những giả định kỳ lạ này: nhưng những điều này, và hàng nghìn giả định khác cùng loại, là những giả định của Cleanthes, không phải của tôi. Từ thời điểm những thuộc tính của những vị gót được cho là hữu hạn, tất cả những điều này đều có chỗ đứng. Và cá nhân tôi, tôi không thể tin rằng một gót học hỗn độn, không chắc chắn như vậy lại đáng ưa chuộng hơn là không có gót học nào cả.

 

D 5.13, KS 169

Những giả định này tôi hoàn toàn phủ nhận, Cleanthes kêu lên : tuy nhiên, chúng không khiến tôi kinh hãi; đặc biệt là khi được đưa ra theo cách lan man đó, theo cách vốn chúng rơi ra khỏi bạn. Ngược lại, chúng làm tôi vui, khi tôi thấy rằng, bằng sự nuông chiều tối đa của trí tưởng tượng của bạn, bạn không bao giờ thoát khỏi giả thuyết về thiết kế trong vũ trụ; nhưng buộc phải, ở mọi ngã rẽ, phải viện đến nó. Tôi kiên trì với sự nhượng bộ này; và tôi coi đây là một nền tảng đủ vững chắc cho tôn giáo.

 

D 5.2n5, KS 165

1.       Lib. ii. 1094.

 

D 5.2n6, KS 165

2.       De nat. Deor. lib. i.

 


 

PHẦN VI

 

Tóm Tắt

 

Trong phần này, Philo bắt đầu một hướng tấn công mới chống lại luận chứng thiết kế. Giống như lập luận trước, lập luận này dựa trên sự kiện là chúng ta có quá ít bằng chứng để hỗ trợ cho bất kỳ kết luận quan trọng nào về bản chất của Gót. Tuy nhiên, ở đây, thay vì cho thấy rằng bằng chứng về sự thiết kế trong vũ trụ của chúng ta không thể dẫn đến bất cứ gì ngoài khái niệm rất mơ hồ về một hay nhiều nhà thiết kế, Philo cho thấy bằng chứng do vũ trụ chúng ta cung cấp thực ra ủng hộ nhiều loại loại suy, không chỉ loại suy về thiết kế. Với bằng chứng ủng hộ tất cả loại suy này đều ngang nhau, ông lập luận, chúng ta không có cơ sở nào để chấp nhận loại suy này hơn loại suy kia. Việc so sánh vũ trụ với một cỗ máy chỉ là một cách có thể có của việc hình dung về thế giới. Lấy thí dụ, vũ trụ thì cũng là một loại gì đó giống như một cơ thể động vật hay một thực vật, ở chỗ cả hai đều thể hiện một mức độ trật tự cấu trúc cao. Chúng ta có thể nghĩ đến nhiều những vật thể quen thuộc vốn vũ trụ mang một số điểm tương đồng nào đó; rõ ràng điều này không có nghĩa là vũ trụ thực sự là một trường hợp của mỗi vật thể này.

 

Mặc dù Philo tuyên bố rằng ông có thể nghĩ ra những loại suy giống như vậy, nhưng trong chương này ông chọn tập trung vào một loại suy, giữa vũ trụ và một cơ thể động vật. Theo bức tranh này, thế giới vật chất giống như một cơ thể, và Gót với thế giới thì giống như một hồn hay não thức với một cơ thể sinh vật. Philo chọn loại suy này phần lớn vì nó là đã một thế giới quan rất phổ thông trong những văn minh thời cổ. Vũ trụ giống một động vật ở chỗ nó có cấu trúc có trật tự; nó là một hệ thống khép kín; những bộ phận khác nhau của vũ trụ cùng hoạt động theo cách những bộ phận của một cơ thể cùng hoạt động; và mỗi bộ phận hoạt động để tự bảo tồn và cũng để bảo tồn toàn bộ. Ngoài ra, còn một lý do nữa để tin vào loại suy này: nếu chúng ta khẳng định rằng Gót giống như não thức con người, một thực thể thông minh, biết suy nghĩ, thì tại sao lại dừng lại ở đó? Trong tất cả những kinh nghiệm của chúng ta, mọi não thức chúng ta từng biết đều gắn liền với một cơ thể nào đó. Vậy, theo logic đó, Gót không phải cũng có một loại cơ thể nào đó sao? Nếu chúng ta dựa trên kinh nghiệm chúng ta để đưa ra ý tưởng, thì loại suy giống con người này, ở đó não thức và cơ thể đi cùng với nhau, nó thực sự phù hợp với những quan sát của chúng ta hơn những so sánh trừu tượng, mang tính máy móc cơ học hơn.

 

Và nếu Cleanthes muốn phản đối rằng kinh nghiệm của chúng ta thì giới hạn và rằng não thức có thể dễ dàng hiện hữu với không cơ thể, khi đó ông cũng phải từ bỏ lập luận của chính ông: một khi ông nhìn nhận rằng kinh nghiệm của chúng ta thì quá hạn hẹp để đóng vai trò nền tảng cho những suy luận về những chân lý lớn hơn, sau đó ông nhìn nhận rằng lập luận của chính ông là sai lầm, vì ông đã giả định rằng kinh nghiệm của chúng ta phải cung cấp một loại suy tốt cho toàn bộ thế giới khi dùng luận chứng thiết kế. Lập luận của ông cũng cố gắng dựa trên phạm vi hạn hẹp, giới hạn của kinh nghiệm con người. Cleanthes trả lời những điểm nêu ra của Philo bằng cố gắng chỉ ra những khiếm khuyết trong loại suy thay thế Philo đưa ra: ông chỉ ra rằng vũ trụ không có những giác quan như một động vật, không có nơi suy nghĩ, không có nguồn gốc của chuyển động hoặc hành động. Trong thực tế, Cleanthes chỉ ra rằng vũ trụ thì giống một cơ thể thực vật hơn là giống một cơ thể động vật. Vì vậy, người ta không thể thực sự dùng loại suy này để kết luận vũ trụ có loại linh hồn nào (tức là Gót giống như thế nào): nó sẽ bỏ lại kết luận không xác định được giữa một hồn động vật và một hồn thực vật.

 

Phàn nàn lớn khác của ông với loại suy này là nó ngụ ý rằng thế giới là vĩnh cửu. Thế giới sẽ phải là vĩnh cửu theo quan điểm này vì Gót là vĩnh cửu và nếu Gót là linh hồn và vũ trụ là cơ thể của ngài, thì ngài không thể hiện hữu trước vũ trụ. Nhưng thế giới, Cleanthes tuyên bố, rõ ràng là không vĩnh cửu. Trong thực tế, rõ ràng là nó khá trẻ. Nếu nó không trẻ, ông lập luận, thì nó sẽ không phải là gần đây khi một người châu Âu phát hiện ra châu Mỹ, rằng cây nho được đưa vào Pháp, rằng cây anh đào được đưa vào châu Âu, v.v. Nếu thế giới là vĩnh cửu thì chắc chắn tất cả những sự việc này đã xảy ra từ lâu trước đó.

 

Philo trả lời lập luận này bằng phản bác hiển nhiên: khẳng định rằng thế giới là vĩnh cửu không có nghĩa là khẳng định rằng nó đã vĩnh cửu như hiện tại. Có lẽ đúng là nếu luôn có con người sống trong những điều kiện môi trường gần giống với những điều kiện hiện tại, thì tất cả những sự kiện gần đây này sẽ xảy ra sớm hơn nhiều. Nhưng xét đến việc thế giới có thể đã khác rất nhiều trong phần lớn thời gian hiện hữu của nó (thí dụ có thể không có con người, toàn bộ trái đất có thể được nước bao phủ, ngay cả có thể không có hành tinh Trái đất), thì không có lý do gì để nghĩ rằng những sự kiện này có thể xảy ra sớm hơn.

 

Philo kết thúc phần này bằng đưa ra một giải thích hoàn toàn duy vật về một thế giới có trật tự. Nếu ông phải chọn một hệ thống tự nhiên nào đó hợp lý hơn tất cả những hệ thống khác, ông sẽ chọn một hệ thống gồm một nguyên lý trật tự vĩnh cửu đang hoạt động trong thế giới vật chất.

 

 

Phần VI

 

D 6.1, KS170

Quả thực, Demea nói, đó phải là một kết hợp mỏng manh, mới có thể dựng trên một nền lung lay như vậy. Trong khi chúng ta không chắc chắn, liệu chỉ có một hay nhiều vị gót; liệu vị gót hay những vị gót này, vốn nhờ họ chúng ta hiện hữu, là toàn hảo hay không là toàn hảo, một vị là tối cao hay nhiều vị thấp hơn, còn sống hay ngay cả đã chết; chúng ta có thể đặt tin tưởng hay tín nhiệm nào vào họ? Chúng ta có thể cống hiến tôn kính hay tuân phục nào cho họ? Nếu chúng ta ngay cả không biết bản chất thực sự của đấng thiêng liêng, không chắc chắn về đối tượng của tin tưởng, lý thuyết của tôn giáo trở nên hoàn toàn vô dụng: và ngay cả khi nói về lý luận thuần túy lý thuyết, khi chúng ta cố gắng suy đoán về bản chất của đấng thiêng liêng, chính sự không chắc chắn này, theo như chính bạn thừa nhận, chắc chắn sẽ khiến mọi kết luận của chúng ta trở nên tất cả bấp bênh và không thỏa đáng.

 

D 6.2, KS170

Để khiến nó còn không thỏa đáng hơn, Philo nói, một giả thuyết khác xuất hiện với tôi, vốn có vẻ như có thể xảy ra nếu chúng ta theo phương pháp lý luận Cleanthes đã nhấn mạnh rất nhiều. Rằng những hiệu quả giống nhau phát sinh từ những nguyên nhân giống nhau: ông giả định nguyên lý này là nền tảng của tất cả tôn giáo. Nhưng có một nguyên lý khác, thuộc cùng loại, không kém phần chắc chắn, và được rút ra từ cùng nguồn của kinh nghiệm; Đó là khi nhiều những hoàn cảnh đã biết được quan sát thấy là giống nhau, thì những hoàn cảnh chưa biết cũng sẽ được tìm thấy là giống như chúng. Do đó, nếu chúng ta nhìn thấy những tay chân của một cơ thể con người, chúng ta kết luận rằng nó cũng có một đầu người, dù bị che khuất khỏi chúng ta. Tương tự như vậy, nếu chúng ta nhìn thấy, qua một khe hở trên tường, một phần nhỏ của mặt trời, chúng ta kết luận rằng, nếu bức tường được gỡ bỏ, chúng ta sẽ nhìn thấy toàn bộ mặt trời. Tóm lại, phương pháp lý luận này quá hiển nhiên và quen thuộc, đến nỗi không bao giờ có thể đưa ra bất kỳ nghi ngờ hợp lý nào về tính vững chắc của nó.

 

D 6.3, KS170-1

Bây giờ, nếu chúng ta xem xét vũ trụ, theo như chúng ta biết, nó có sự tương đồng mạnh mẽ với một động vật hoặc một cơ thể có tổ chức, và dường như được thúc đẩy bởi một nguyên lý tương tự về sự sống và chuyển động. Vật chất lưu thông liên tục trong vũ trụ, nhưng không gây ra sự hỗn loạn. Mỗi bộ phận đều bị hao mòn dần, nhưng cũng được sửa chữa không ngừng. Trong toàn bộ hệ thống, có một sự kết nối sâu xa và liên tục: những bộ phận khác nhau phản ứng với nhau và hoạt động cùng nhau như thể toàn bộ hệ thống chia sẻ một đời sống duy nhất. Mỗi bộ phận, bằng cách thực hiện chức năng riêng của n, phục vụ cho cả sự bảo tồn của chính nó và sự bảo tồn của toàn bộ. Từ điều này, tôi suy ra rằng bản thân thế giới là một loài động vật, và đấng thiêng liêng là HỒN của thế giới – truyền sự sống cho nó, đồng thời thể hiện sự sống của ngài qua nó

 

D 6.4, KS171

Bạn có quá nhiều kiến thức, Cleanthes, để ngạc nhiên trước trước những ý kiến ​​này, vốn như bạn biết, được hầu hết những người theo thuyết tin có gót thời thời cổ duy trì, và chủ yếu nổi bật trong trong những nói viết và lý luận của họ. Mặc dù đôi khi những triết gia thời cổ lý luận từ những nguyên nhân cuối cùng, như thể họ nghĩ thế giới là công trình tài ba của Gót; nhưng có vẻ như quan niệm ưa thích của họ là coi thế giới như cơ thể của ngài, có tổ chức khiến nó phục tùng ngài. Và phải thú nhận rằng, vì vũ trụ giống cơ thể con người hơn là những công trình nghệ thuật và sáng chế của con người; nếu loại suy giới hạn của chúng ta có thể, với bất kỳ sự phù hợp nào, được mở rộng đúng cách cho toàn bộ thiên nhiên, thì suy luận thực sự sẽ ủng hộ lý thuyết thời cổ hơn là lý thuyết thời nay.

 

D 6.5, KS171

Cũng có nhiều lợi thế khác trong lý thuyết trước đó, khiến nó được những nhà gót học thời cổ đặc biệt ưa chuộng. Không có gì trái ngược hơn với tất cả những ý tưởng của họ – và thực sự là với kinh nghiệm chung – hơn là khái niệm về một não thức không có cơ thể: một thực thể thuần túy về tinh thần, vốn cả giác quan lẫn sự hiểu biết của họ đều không thể nắm bắt được, và họ chưa bao giờ quan sát thấy một trường hợp nào trong toàn bộ tự nhiên. Họ biết về não thức và cơ thể, bởi vì họ đã kinh nghiệm cả hai trực tiếp; họ cũng biết về trật tự, sự sắp xếp, tổ chức và bộ máy bên trong ở cả hai, qua cùng một loại kinh nghiệm. Do đó, có vẻ tự nhiên và hợp lý khi mở rộng kinh nghiệm này ra chính vũ trụ – giả sử rằng não thức thần thánh và cơ thể thần thánh tồn tại cùng nhau ngay từ đầu, và cả hai đều sở hữu trật tự và cấu trúc một cách tự nhiên, như một phần thiết yếu và không thể tách rời của chính bản thể của chúng.

 

D 6.6, KS171-2

Do đó, ở đây là một loài mới của Thuyết Nhân hóa, Cleanthes, vốn bạn có thể cân nhắc; và một lý thuyết dường như không dễ gặp bất kỳ khó khăn đáng kể nào. Chắc chắn bạn, người đứng trên những thành kiến ​​có hệ thống, chắc chắn không nên thấy khó chấp nhận rằng cơ thể động vật có thể, tự nó hoặc qua những nguyên nhân chưa biết, sở hữu trật tự và tổ chức, hơn là chấp nhận rằng một trật tự tương tự thuộc về não thức. Nhưng định kiến thông tục, rằng cơ thể và não thức phải luôn đi kèm với nhau, người ta nên nghĩ rằng, không nên bị bác bỏ hoàn toàn; vì nó dựa trên kinh nghiệm thông tục, là kim chỉ nam duy nhất vốn bạn tuyên bố tuân theo trong tất cả những điều tra gót học này. Và nếu bạn khẳng định rằng kinh nghiệm giới hạn của chúng ta không phải là thước đo tốt, để đánh giá phạm vi vô hạn của tự nhiên; bạn hoàn toàn từ bỏ giả thuyết của riêng mình và từ đó phải áp dụng Thuyết thần bí của chúng tôi, như bạn gọi, và nhìn nhận rằng tuyệt đối không thể hiểu nổi Bản chất Thần thánh.

 

D 6.7, KS172

Tôi nhìn nhận rằng lý thuyết này, Cleanthes trả lời, chưa bao giờ xuất hiện trong đầu tôi trước đây, mặc dù nó có vẻ khá tự nhiên. Và chỉ sau một khoảnh khắc ngắn ngủi xem xét và suy ngẫm, tôi không thể dễ dàng đưa ra ý kiến ​​chắc chắn về nó. Bạn thực sự rất thận trọng, Philo nói. Nếu tôi đã xem xét một trong những lý thuyết của bạn, tôi sẽ không ngần ngại hay kiềm chế đến một nửa khi nêu ra những phản đối và những khó khăn chống lại nó. Tuy nhiên, nếu có bất kỳ điều gì nảy ra trong đầu, bạn sẽ giúp chúng tôi bằng cách đưa nó ra.

 

D 6.8, KS172

Vậy thì tại sao, trả lời Cleanthes, với tôi, có vẻ như, mặc dù thế giới, trong nhiều trường hợp, giống với cơ thể một động vật; nhưng phép loại suy này cũng có sai sót trong nhiều trường hợp, đặc biệt là ở những điểm thiết yếu nhất. Thế giới không có những giác quan, không chỗ của suy nghĩ hay lý luận; không có nguồn gốc chính xác nào của chuyển động và hành động. Tóm lại, thế giới có vẻ giống với một thực vật hơn một động vật. Do đó, lập luận của bạn về sự tồn tại của một linh hồn của thế giới không đuọc thuyết phục cho lắm

 

D 6.9, KS172-3

Nhưng ở nơi tiếp theo, lý thuyết của bạn dường như ngụ ý về sự vĩnh cửu của thế giới; và đó là một nguyên lý, vốn tôi nghĩ, có thể bị những lý lẽ và xác suất mạnh mẽ nhất phản bác. Tôi sẽ đưa ra một lập luận cho mục đích này, vốn tôi tin rằng, chưa có tác giả nào từng nhấn mạnh. Những người lý luận từ nguồn gốc muộn của nghệ thuật và khoa học, mặc dù suy luận của họ không thiếu sức mạnh, có lẽ có thể bị bác bỏ bởi những cân nhắc, xuất phát từ bản chất của xã hội loài người, vốn đang trong cuộc cách mạng liên tục, giữa sự ngu dốt và kiến thức, tự do và nô lệ, giàu có và nghèo đói; vì vậy, chúng ta, từ kinh nghiệm giới hạn của chúng ta, không thể dự đoán một cách chắc chắn những sự kiện nào có thể hay không thể mong đỡiayr ra. Học thuật và lịch sử thời cổ dường như đã gặp nguy cơ lớn bị diệt vong hoàn toàn sau khi những quốc gia man rợ bị nhấn chìm; và nếu những gián đoạn giật này tiếp tục lâu hơn một chút, hay dữ dội hơn một chút, thì giờ đây chúng ta có thể hầu như không biết gì về những gì đã xảy ra trên thế giới chỉ vài thế kỷ trước chúng ta. Không, nếu như đã không có sự mê tín của những Vua chiên, những người đã bảo tồn một ít biệt ngữ tiếng Latin, để hỗ trợ cho sự xuất hiện của một hội nhà thờ cổ xưa và phổ quát, thì ngôn ngữ đó hẳn đã hoàn toàn biến mất: trong trường hợp đó, thế giới phương Tây, vốn hoàn toàn man rợ, sẽ không có sự sắp xếp phù hợp để tiếp nhận ngôn ngữ và kiến thức Hellas, vốn đã được truyền đạt cho họ sau khi Constantinople bị cướp phá. Khi kiến thức và sách vở đã bị đốt sạch, ngay cả những nghề thủ công, buôn bán giao thương thiết yếu cho xã hội cũng có thể bị tổn hại hoặc mất đi đáng kể; và người ta dễ dàng hình dung rằng, truyện ngụ ngôn hay truyền thống có thể gán cho chúng một nguồn gốc muộn hơn nhiều so với nguồn gốc thực sự. Do đó, lập luận thông tục này, chống lại sự vĩnh cửu của thế giới, có vẻ hơi bấp bênh.

 

D 6.10, KS173

Nhưng điều này dẫn chúng ta đến một biện luận mạnh mẽ hơn. Hãy lấy thí dụ về cây anh đào. Lucullus là người đầu tiên mang cây anh đào từ châu Á đến châu Âu. Tuy nhiên, loại cây này mọc rất dễ dàng ở nhiều nơi ở châu Âu đến nỗi hiện nay nó phát triển mạnh mẽ trong rừng, không cần bất kỳ sự chăm sóc hay trồng trọt nào.Vậy đây là câu hỏi: nếu thế giới tồn tại vĩnh cửu, liệu có phải thực sự không có người châu Âu nào từng du hành đến châu Á trước Lucullus và nghĩ đến việc mang về một loại trái cây ngon như vậy không? Và một khi cây anh đào đã được cấy ghép và bén rễ, làm sao nó có thể biến mất hoàn toàn? Đúng vậy, những đế quốc có thể trỗi dậy và sụp đổ tự do và chế độ nô lệ thay phiên nhau thành công; sự ngu dốt và kiến thức nhường chỗ cho nhau. Nhưng không điều gì trong số đó ảnh hưởng đến cây anh đào – nó sẽ tiếp tục mọc hoang trong những khu rừng của Greece, Spain và Italy, và sẽ không bao giờ bị ảnh hưởng bởi những cách mạng của xã hội loài người.[5]

 

D 6.11, KS173-4

Chưa đến hai ngàn năm kể từ khi cây nho được đem vào nước Pháp; mặc dù không có khí hậu nào trên thế giới thuận lợi hơn cho chúng. Chưa đến ba thế kỷ kể từ khi ngựa, bò, cừu, lợn, chó, ngô được biết đến ở Mỹ. Có thể nào, trong suốt những biến động của cả một toàn bộ thời gian của vĩnh cửu, chưa bao giờ xuất hiện một Columbus, người có thể mở ra sự giao thương giữa châu Âu và lục địa đó không? Chúng ta cũng có thể thử tưởng tượng rằng tất cả mọi người đều đều đã mang bít tất dài trong mười ngàn năm, và không bao giờ có đủ lý trí để nghĩ đến việc dùng dây nịt bít tất – dây garter – để buộc chúng. Tất cả những điều này dường như là những bằng chứng thuyết phục về tuổi trẻ, hay đúng hơn là thời kỳ sơ khai của thế giới; được xây dựng trên sự vận hành của những nguyên lý liên tục và ổn định hơn, so với những nguyên lý mà xã hội loài người được quản lý và chỉ đạo. Không gì ngoài một sự biến động toàn diện, một đảo lộn hoàn toàn và thảm khốc của chính thiên nhiên, mới có thể xóa sạch mọi dấu vết của thực vật và động vật châu Âu, hiện đang có mặt ở thế giới phương Tây. [6]

 

D 6.12, KS174-5

Và bạn có những biện luận nào để phủ nhận những biến động lớn như vậy như vậy? Philo trả lời. Có thể tìm thấy những bằng chứng mạnh mẽ và gần như không thể chối cãi trên khắp trái đất, rằng mọi phần của quả địa cầu này liên tục trong nhiều thời đại, đã hoàn toàn chìm dưới nước. Và mặc dù trật tự được giả định là không thể tách rời khỏi vật chất và vốn có trong vật chất; nhưng vật chất có thể chịu nhiều những biến đổi lớn lao, qua những giai đoạn vô tận của sự hiện hữu vĩnh cửu. Những thay đổi liên tục vốn mọi bộ phận của nó phải chịu, dường như ám chỉ một số chuyển đổi chung như vậy; mặc dù đồng thời, có thể quan sát thấy rằng tất cả những thay đổi và sự suy thoái vốn chúng ta từng trải qua, chỉ là sự chuyển đổi từ trạng thái trật tự này sang trạng thái trật tự khác; vật chất cũng không bao giờ có thể nằm trong sự biến dạng và hỗn loạn hoàn toàn. Những gì chúng ta thấy trong những bộ phận, chúng ta có thể suy ra trong toàn bộ; ít nhất, đó là phương pháp lý luận vốn bạn dựa vào toàn bộ lý thuyết của mình. Và nếu tôi buộc phải bảo vệ bất kỳ hệ thống cụ thể nào có bản chất này (điều vốn tôi không bao giờ muốn làm), tôi coi không có hệ thống nào hợp lý hơn hệ thống quy định một nguyên lý trật tự cố hữu, vĩnh cửu cho thế giới; mặc dù đi kèm với những cách mạng và những thay đổi lớn và liên tục. Điều này ngay lập tức giải quyết mọi khó khăn; và nếu giải pháp, vì tổng quát như thế, không hoàn toàn đầy đủ và thỏa đáng, thì ít nhất, đó là một lý thuyết mà sớm muộn gì chúng ta cũng phải viện đến, bất kể hệ thống nào chúng ta chấp nhận. Rốt cuộc, làm sao vũ trụ có thể phát triển thành những gì chúng ta thấy bây giờ, trừ khi có một nguyên lý tổ chức ban đầu nào đó tồn tại – trong tư tưởng hoặc trong vật chất? Và cuối cùng, việc chúng ta ưu tiên cho điều nào cũng không tạo nhiều khác biệt. Trong mọi trường hợp, dù là hoài nghi hay tôn giáo, thì cũng không có chỗ cho sự ngẫu nhiên thuần túy. Mọi sự việc đều tuân theo những quy luật nhất quán và không thể phá vỡ. Nếu chúng ta có thể nhìn thấu bản chất bên trong thực sự của mọi sự việc, thì chúng ta có thể tìm thấy một mức độ cấu trúc và sự cần thiết vốn hiện tại chúng ta không thể tưởng tượng được. Thay vì kinh ngạc trước trật tự vốn chúng ta thấy trong tự nhiên, chúng ta sẽ nhận ra rằng nó không bao giờ có thể diễn ra theo bất kỳ cách nào khác, ngay cả trong chi tiết nhỏ nhất.

 

D 6.13, KS175

Nếu có ai muốn hồi sinh Gót học ngoại giáo thời cổ, vốn chủ trương, như Hesiod nói với chúng ta, rằng quả địa cầu này được ba mươi nghìn thần linh cai quản, những thần linh này xuất hiện từ những sức mạnh vô danh của Tự nhiên: theo lẽ tự nhiên, Cleanthes, bạn sẽ phản đối rằng không có lợi ích gì từ giả thuyết này; và rằng cũng dễ dàng để giả định rằng tất cả con người và loài vật, những sinh vật đông đảo hơn nhưng kém toàn hảo hơn, đều xuất phát trực tiếp từ cùng một nguồn gốc giống nhau. Hãy đẩy suy luận tương tự đi xa hơn một bước; và bạn sẽ thấy một xã hội đông đảo của những thần linh cũng dễ giải thích như một vị gót toàn năng, người có được, bên trong chính ông, những sức mạnh và sự toàn hảo của toàn bộ xã hội. Do đó, tất cả những hệ thống này của rằng thuyết hoài nghi, tin có gót và không tin có gót, bạn phải cho phép, đều đứng trên một nền tảng ngang nhau, và không hệ thống nào trong số chúng có bất kỳ lợi thế nào hơn hệ thống khác. Từ đó, bạn có thể học được sự sai lầm trong những nguyên lý của bạn.

 

 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Mar/2025)

(Còn tiếp... )

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 

 



[1] Tully: Một tên gọi khác của Marcus Tullius Cicero (106–43 TCN), một triết gia, nhà hùng biện và chính khách người Rôma. Trong De ​​Natura Deorum (Về bản chất của những vị gót), Cicero trình bày một cuộc trò chuyện giữa ba nhân vật, mỗi nhân vật đại diện cho một trường phái triết học chính: những người theo thuyết Stoics (những người tranh luận về sự quan phòng và thiết kế của thần thánh), những người theo thuyết Epicurus (những người phủ nhận sự can thiệp của thần thánh vào vũ trụ) và những người phái Academics (một trường phái hoài nghi bắt nguồn từ Academy của Plato, cho rằng một số kiến ​​thức nhất định là không thể có được, và chúng ta phải chấp nhận xác suất của chúng). Bản thân Cicero cũng thiên về thuyết hoài nghi của phái Academics này. Hume trích dẫn Cicero để cho thấy rằng những khó khăn trong việc so sánh sự sáng tạo của thần thánh với tài năng khéo léo của con người đã được biết đến và bàn luận trong thời cổ.

Epicurean: Người theo Epicurus (341–270 TCN), một triết gia Hellas dạy rằng vũ trụ gồm những atoms và khoảng trống, hoạt động theo những quy luật tự nhiên mà không cần sự can thiệp của thần linh. Những người theo Epicurus tin rằng những vị gót tồn tại nhưng lại thờ ơ, lãnh đạm, đứng ngoài thế giới. Trong đối thoại của Cicero, nhân vật theo Epicurus bày tỏ sự hoài nghi sâu xa với ý tưởng rằng vũ trụ được thiết kế giống như một cấu trúc do con người tạo ra – một lập luận Philo áp dụng ở trên.

Plato: (khoảng 427–347 TCN). Trong đàm thoại Timaeus, Plato nêu lên rằng vũ trụ được chế tác bởi một nghệ nhân thần linh hay Demiurge, người đã đặt trật tự lên sự hỗn loạn đã tồn tại từ trước, bằng dùng những thể dạng vĩnh cửu như một mô hình. Người theo thuyết Epicure trong đàm thoại của Cicero đặt câu hỏi làm thế nào Plato – hoặc bất kỳ ai – có thể tưởng tượng ra một tiến trình xây dựng thần thánh như vậy, khi thiếu bằng chứng có thể quan sát được. Hume trích dẫn điều này để củng cố sự vô lý của việc rút ra những suy luận chi tiết về một não thức thần thánh dựa trên sự loại suy với những tạo phẩm khéo léo của con người.

[2] Milton: Đây là một lời nhắc đến Paradise Lost, nơi John Milton mô tả ti vị về cách những nguyên lý âm dương (nam và nữ) mang lại sự sống và làm cho thế giới trở nên sống động. Nó dùng ở đây để nhấn mạnh tính phổ quát của tình dục và sinh sản giữa những sinh vật sống.

[3] cosmic families: những gia đình ở mức vũ trụ: ám chỉ đến ý tưởng thần thoại rằng những vị gót tạo thành gia đình, giống như con người vậy – họ được sinh ra, kết hôn, có con, chiến đấu và thừa hưởng quyền lực. Như thần thoại Hellas: Uranus (Bầu trời) và Gaia (Trái đất) sinh ra những Titan; những Titan sinh ra những vị gót Olympian (như Zeus, Hera, Poseidon); và những vị gót đó thường có con với nhau hoặc với người phàm. Thần thoại Egypt và Bắc Âu: Cũng có phả hệ thần thánh, trong đó những vị gót sinh ra những vị gót khác, với sự ganh đua trong gia đình, tranh giành quyền kế vị và vai trò thừa kế.

[4] Epicurus (341–270 TCN): Ông tin rằng những vị gót tồn tại nhưng là những sinh vật xa lạ, không can thiệp vào con người và hoàn toàn hạnh phúc. Ông tuyên bố rằng vì chúng ta chỉ thấy lý trí ở dạng người, nên chúng ta tự nhiên tưởng tượng ra những vị gót ở dạng người (nhân cách hóa). Đối với ông, những vị gót là những nhân vật lý tưởng giống con người, nhưng không phải là người sáng tạo hay nhà lập pháp đạo đức. Cicero (106–43 TCN): Viết về On the Nature of the Gods/ Bản chất của những vị gót, trong đó ông phê phán nhiều quan điểm tôn giáo, gồm cả thuyết của Epicurus. Chế giễu ý tưởng cho rằng những vị gót phải trông giống con người chỉ vì con người có lý trí – xem đó là một sai lầm hẹp hòi, lấy con người làm trung tâm. Ủng hộ một khái niệm trừu tượng và lý trí hơn về thần thánh, chịu ảnh hưởng của trường phái Stoics.

[5] Lucullus và cây anh đào – Lucius Licinius Lucullus (khoảng 118–57 TCN), một vị tướng và lãnh sự Rôma, theo truyền thống được cho là người đã đưa cây anh đào (Prunus avium) vào châu Âu từ Pontus (một vùng gần Biển Đen) sau những chiến dịch quân sự của ông ở Tiểu Á. Câu chuyện, mặc dù mang tính huyền thoại, nhưng lại phổ biến trong những tài liệu của Rôma và ở đây dùng để minh họa cách vốn ngay cả những trao đổi nông nghiệp cơ bản cũng đã diễn ra trong lịch sử loài người.

[6] Cây nho ở Pháp – Nghề trồng nho được những người định cư Greece du nhập vào Pháp vào khoảng năm 600 TCN, đặc biệt là ở vùng Massalia (Marseille ngày nay). Trước đó, cây nho không được trồng ở đất Gaul mặc dù có điều kiện lý tưởng để sản xuất rượu vang. Động vật và cây trồng châu Âu ở châu Mỹ – Trước khi người châu Âu tiếp xúc, những loài động vật thuần hóa như ngựa, bò, cừu, lợn và những loại nông sản chính như lúa mì và lúa mạch không được biết đến ở châu Mỹ. Những loài này được du nhập trong thời kỳ Trao đổi Columbia sau những chuyến đi của Columbus vào cuối thế kỷ 15. Columbus – Christopher Columbus (1451–1506) được cho là người khởi xướng tiếp xúc lâu dài của người châu Âu với châu Mỹ vào năm 1492. Hume viện dẫn những xuất hiện chậm trễ của những sự kiện lịch sử này để phản bác ý tưởng về một thế giới vĩnh cửu, bất biến. Sự tồn tại của những loài – Hume cho rằng một khi những loài châu Âu bén rễ ở châu Mỹ, chúng phát triển độc lập với hoạt động của con người. Chỉ có một thảm họa môi trường toàn diện mới có thể xóa bỏ sự hiện diện của chúng – do đó, sự tồn tại liên tục của chúng cho thấy một sự khởi đầu gần đây, không phải sự tái diễn vĩnh cửu.