Tuesday, October 7, 2025

Hume – Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức (08)

(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)

 

David Hume

 

( ← ... tiếp theo )

 

 



MỤC VI.

Về Những Phẩm Tính Có Ích Cho Bản Thân Chúng Ta.

 

PHẦN I.

 

M 6.1, SBN 233

Có vẻ rõ ràng rằng, khi một phẩm tính hay thói quen được đưa ra để chúng ta xem xét, nếu nó, ở bất kỳ phương diện nào, có vẻ gây bất lợi cho chính người có nó, hay làm họ mất khả năng làm việc và hành động, thì nó ngay lập tức bị chỉ trích và bị xếp vào hàng lỗi lầm và khuyết điểm của người đó. Sự lười biếng, cẩu thả, thiếu trật tự và phương pháp, cố chấp, hay thay đổi, sự hấp tấp, sự dễ tin; những phẩm tính này chưa bao giờ được ai coi là không ảnh hưởng đến nhân cách; càng không được ca tụng như những thành tựu hay đức hạnh. Tác hại xuất phát từ chúng, ngay lập tức đập vào mắt chúng ta, và khiến chúng ta cảm thấy khó chịu và không hài lòng.

 

M 6.2, SBN 233

Không có phẩm tính nào, khi trở thành một phần trong nhân cách của chúng ta, tự thân đã hoàn toàn đáng trách hay đáng khen. Mọi thứ phụ thuộc vào mức độ mà phẩm tính đó hiện diện. Như những người theo Aristotle (Peripatetics) đã nói, đức hạnh được đánh dấu bởi sự cân bằng, mức độ vừa phải. Nhưng sự cân bằng này chủ yếu được đánh giá dựa trên tính hữu ích. Lấy sự nhanh nhẹn và hiệu quả trong công việc làm ví dụ — đó là những phẩm tính đáng ngưỡng mộ. Nếu thiếu chúng, mọi việc sẽ không bao giờ hoàn thành. Nhưng nếu quá mức, nó đẩy chúng ta vào những quyết định và hành động vội vàng, thiếu suy tính. Bằng những lý lẽ như vậy, chúng ta xác định được sự cân bằng thích đáng và đáng khen trong mọi vấn đề về đạo đức và phán đoán thực tiễn — luôn luôn ghi nhớ những lợi ích mà một nhân cách hay thói quen cụ thể mang lại.

 

M 6.3, SBN 234

Bây giờ, khi người có nhân cách này được hưởng những thuận lợi này, thì tình cảm vị kỷ không bao giờ có thể khiến chúng ta, những người chứng kiến, thấy thích thú với viễn cảnh đó và thúc đẩy sự tôn trọng và chấp thuận của chúng ta. Không một sức mạnh tưởng tượng nào có thể biến đổi chúng ta thành một cá nhân khác, và khiến chúng ta tưởng tượng rằng, với tư cách là cá nhân đó, thu được lợi ích từ những phẩm tính quý giá đó, vốn thuộc về người đó. Hay nếu nó có xảy ra, thì cũng không một sự nhanh nhạy nào của trí tưởng tượng có thể ngay lập tức đưa chúng ta trở về với chính chúng ta, khiến chúng ta yêu thương và trân trọng người đó, như một cá thể khác biệt với chúng ta. Những quan điểm và tình cảm, trái ngược hoàn toàn với sự thực đã biết, và trái ngược với nhau, không bao giờ có thể đồng thời hiện hữu vào cùng một thời điểm trong cùng một con người. Do đó, mọi hoài nghi về vị kỷ, hoàn toàn bị loại trừ ở đây. Đó là một nguyên lý hoàn toàn khác, lay động trái tim chúng ta và khiến chúng ta quan tâm đến hạnh phúc của người mà chúng ta nhìn thấy. Khi tài năng bẩm sinh và những khả năng có được của người đó, hứa hẹn một vị trí được kính trọng trong xã hội, thành công cá nhân, nắm giữ vận may ổn định và khả năng hoàn thành những dự án quan trọng hoặc hữu ích —chúng ta bị thu hút bởi những triển vọng tốt đẹp này, và một sự hài lòng và tôn trọng thầm lặng ngay lập tức nảy sinh trong chúng ta đối với người đó. Những ý tưởng về hạnh phúc, vui sướng, chiến thắng, thịnh vượng gắn liền với mọi hoàn cảnh trong tính cách của người đó và lan tỏa trong não thức chúng ta dễ chịu về sự đồng cảm và nhân đạo [26].

 

M 6.4, SBN 235

Hãy giả định một người có nhân cách tự nhiên ngay từ đầu đã được hình thành không màng đến đồng loại, và xem hạnh phúc hay đau khổ của mọi sinh vật hữu tình còn dửng dưng hơn là việc chúng ta quan tâm đến phân biệt hai sắc thái gần như không thể phân biệt được của cùng một màu. Giả định sự thịnh vượng của những quốc gia được đặt ở một bên, còn sự diệt vong của chúng ở bên kia, và người ta muốn người này phải lựa chọn; rằng người này sẽ đứng, giống như con lừa của nhà học giả [1], do dự và không xác định, giữa hai động cơ ngang nhau; hay đúng hơn, giống như cùng một con lừa giữa hai miếng gỗ hay đá cẩm thạch, không có bất kỳ khuynh hướng hay thiên hướng nào về bên nào. Tôi tin rằng, hậu quả phải được công nhận một cách công bằng, rằng một người như vậy, hoàn toàn không quan tâm, dù là hữu ích công cộng của một cộng đồng hay hữu ích cá nhân của người khác, sẽ nhìn mọi phẩm tính, dù có hại hay có lợi cho xã hội hay chủ sở hữu của nó, với cùng sự thờ ơ như với đối tượng phổ biến và nhàm chán nhất.

 

M 6.5, SBN 235-6

Nhưng nếu, thay vì sinh vật vô cảm tưởng tượng này, chúng ta nghĩ đến một con người thực sự, đưa ra một phán đoán hay quyết định, thì ngay cả khi tất cả những yếu tố khác đều ngang nhau, người này vẫn thấy có một nền tảng rõ ràng để ưu tiên một lựa chọn. và dù sự lựa chọn của người này có lạnh lùng đến đâu, nếu trái tim người này vị kỷ, hay nếu những người liên quan ở xa người này; vẫn phải có sự lựa chọn hay phân biệt giữa điều gì có lợi và điều gì có hại. Giờ đây, sự phân biệt này giống nhau ở mọi phần của nó, với sự khác biệt về đạo đức, vốn nền tảng của nó đã được tìm hiểu rất nhiều lần, và rất nhiều lần trong vô ích. Cùng một năng khiếu của trí óc, trong mọi hoàn cảnh, đều dễ chịu với tình cảm của đạo đức và của loài người; cùng một tính khí dễ bị ảnh hưởng ở mức độ cao của cả tình cảm này và tình cảm kia; và cùng một sự thay đổi trong những đối tượng, bằng cách tiếp cận gần hơn hay bằng những kết nối của chúng, làm sống động cả hai. Do đó, theo tất cả những quy luật của triết học, chúng ta phải kết luận rằng những tình cảm này ban đầu là giống nhau; vì trong từng chi tiết cụ thể, ngay cả những chi tiết nhỏ nhất, chúng đều chịu sự chi phối của cùng một quy luật và chịu tác động bởi cùng một đối tượng.

 

M 6.6, SBN 236

Tại sao những nhà triết học lại suy luận, với độ chính xác cao nhất, rằng mặt trăng được giữ trên quỹ đạo của nó bởi cùng một lực hấp dẫn, lực khiến những vật thể rơi xuống mặt Trái Đất, chỉ vì những tác động này, khi tính toán, được thấy là tương tự và tương xứng nhau? Và lẽ nào lập luận này không mang lại niềm tưởng mạnh mẽ, cả trong đạo đức lẫn trong những nghiên cứu về triết học tự nhiên?

 

M 6.7, SBN 236

Việc chứng minh, bằng bất kỳ chi tiết dài dòng nào, rằng tất cả những phẩm tính có lợi cho người sở hữu đều được chấp nhận, còn ngược lại thì bị chỉ trích, sẽ là thừa thãi. Chỉ cần suy ngẫm một chút về những gì kinh nghiệm  hàng ngày trong đời sống cũng đủ. Chúng ta sẽ chỉ đề cập đến một vài thí dụ, để, nếu có thể, xóa bỏ mọi hoài nghi và do dự.

 

M 6.8, SBN 236-7

Phẩm tính cần thiết nhất cho việc thực hiện bất kỳ dự án có ích nào chính là SỰ THẬN TRỌNG; nhờ đó chúng ta có thể giao tiếp an toàn với người khác, quan tâm đúng mức đến tính cách của bản thân chúng ta và của họ, cân nhắc từng tình cảnh của công việc chúng ta đảm nhận và dùng những phương tiện chắc chắn và an toàn nhất để đạt được bất kỳ cứu cánh  hay mục tiêu nào. Có lẽ với một Cromwell, hay một De Retz, sự thận trọng có thể, như Tiến sĩ Swift gọi đùa, dường như là một đức tính “giống như của một nghị viên thành phố” – quá chậm chạp và thận trọng so với những dự định to lớn vốn dũng cảm và tham vọng của họ thúc đẩy – và ở những người như vậy, nó thậm chí có thể bị coi là một khuyết điểm hay một sự thiếu sót. Nhưng trong đời sống thường nhật, không có đức hạnh nào cần thiết hơn đức hạnh này, không chỉ để đạt được thành công vốn còn để tránh những sai lầm và thất vọng tai hại nhất.  Những tài năng lớn mà không có sự thận trọng có thể hủy hoại chính chủ nhân của chúng, như một tác giả tài giỏi đã từng nhận xét, giống như gã khổng lồ Polyphemus, sau khi mất một mắt, trở nên nguy hiểm hơn vì sức mạnh và vóc dáng to lớn của mình. [2]

 

M 6.9, SBN 237

Thật vậy, nhân cách tốt nhất, nếu không quá toàn hảo so với bản chất con người, là nhân cách không bị chi phối bởi tính khí bất kỳ loại nào; nhưng luân phiên dùng sự táo bạo và thận trọng, vì mỗi nhân chất đều có ích cho mục đích cụ thể đã định. Đó là sự xuất sắc vốn St. Evremond ca ngợi Thống chế Turenne vì một sự xuất sắc hiếm có: càng lớn tuổi, ông càng táo bạo hơn trong những chiến dịch quân sự, nhưng kinh nghiệm dày dặn và kiến ​​thức sâu rộng về mọi chi tiết đã cho phép ông tiến quân một cách vững vàng và an toàn trong những chiến lược và chiến thuật vốn ông đã thành thạo. Machiavelli nhận xét rằng Fabius thận trọng, trong khi Scipio táo bạo—và cả hai đều thành công vì hoàn cảnh của La Mã phù hợp với tính khí tự nhiên của họ; mỗi người có thể sẽ thất bại nếu đặt mình vào hoàn cảnh của người kia. Một người may mắn khi hoàn cảnh phù hợp với tính cách của mình, nhưng người thực sự xuất sắc là người có thể điều chỉnh tính cách của mình cho phù hợp với bất kỳ hoàn cảnh nào.[3]

 

M 6.10, SBN 237

Cần gì phải ca ngợi sự SIÊNG NĂNG và nhấn mạnh lợi ích của nó trong việc đạt được quyền lực và giàu có, hay trong việc tạo dựng nhữngvốn chúng ta gọi là một tài sản trên đời? Theo truyện ngụ ngôn, nhờ sự kiên trì, rùa đã chạy theo kịp thỏ, mặc dù thỏ nhanh nhẹn hơn nhiều. Thời gian của một người, nếu được quản lý tốt, cũng giống như một cánh đồng canh tác, vốn chỉ vài mẫu đất cũng có thể sinh sản nhiều nhữngcó ích cho đời sống hơn là những vùng đất rộng lớn, ngay cả những đất màu mỡ nhất, nhưng lại tràn lan đầy cỏ dại và những bụi gai.

 

M 6.11, SBN 237-8

Nhưng mọi triển vọng thành công trong đời sống, hay ngay cả là mức sống tạm ổn, đều sẽ thất bại nếu thiếu một sự TIẾT KIỆM hợp lý. Thay vì tăng lên, đống tiền lại giảm đi mỗi ngày, khiến chính người có nó càng thêm bất hạnh, vì không thể giới hạn chi tiêu của mình vào một khoản thu nhập lớn, người này càng không thể sống hài lòng với một khoản thu nhập nhỏ. Theo Plato [27], những hồn người, bị những ham muốn không trong sạch thiêu đốt, và sau khi mất đi thể xác, vốn là phương tiện duy nhất mang lại sự thỏa mãn, sẽ bay lượn trên mặt đất và lai vãng, ám ảnh những nơi vốn cơ thể họ được chôn cất; bị ám ảnh bởi một mong muốn khao khát phục hồi những cơ quan đã mất của cảm giác. Cũng vậy, chúng ta có thể thấy Những người hoang đàng vô giá trị, đã tiêu hết tài sản của họ vào những trụy lạc ngông cuồng, lao vào mọi bàn tiệc thịnh soạn và mọi hộivui chơi, bị ngay cả những người độc ác ghét bỏ và ngay cả cả những người ngu ngốc khinh miệt.

 

M 6.12, SBN 238

Một thái cực của tính tiết kiệm là tính tham lam, vì nó vừa tước đoạt của cải của một người, vừa kìm hãm lòng hiếu khách và mọi thú vui xã hội, nên đáng bị lên án vì hai lý do. Còn thái cực kia, tính hoang phí, thường gây hại nhiều hơn cho chính bản thân người đó; và mỗi thái cực này bị lên án nhiều hơn thái cực kia, tùy thuộc vào tính khí của người chỉ trích, và tùy thuộc vào mức độ nhạy cảm nhiều hay ít của người đó với thú vui, dù là xã hội hay nhục dục.

 

M 6.13, SBN 238

Những phẩm tính thường có giá trị từ những nguồn phức tạp. Sự trung thực, lòng trung thành, sự chân thật được ca ngợi vì khuynh hướng trực tiếp thúc đẩy những lợi ích của xã hội; nhưng sau khi những đức hạnh đó được xây dựng trên nền tảng này, chúng cũng được coi là có lợi cho chính bản thân người đó, và là nguồn gốc của sự tin tưởng và tín nhiệm, những yếu tố duy nhất có thể khiến một người được coi trọng trong đời sống. Người ta trở nên đáng khinh, ngay cả đáng ghét, khi quên mất bổn phận, vốn trong trường hợp cụ thể này, người này mang nợ với bản thân cũng như với xã hội.

 

M 6.14, SBN 238-9

Có lẽ suy ngẫm này giúp giải thích tại sao xã hội lại đổ lỗi nặng nề đến vậy cho ngay cả những sai sót nhỏ nhất về sự trinh tiết ở phụ nữ. Đối với phụ nữ, sự tôn trọng và kính trọng cao nhất gắn liền với lòng chung thủy của họ. Một khi điều này bị xâm phạm, họ sẽ bị hạ thấp giá trị, bị coi thường, bị tước đoạt địa vị xã hội, và phải chịu sự sỉ nhục và thiếu tôn trọng. Ngay cả một sự vi phạm nhỏ nhất trong lĩnh vực này cũng có thể hủy hoại danh tiếng của họ. Lý do là vì phụ nữ, do bản chất hoàn cảnh của họ, có rất nhiều cơ hội để thỏa mãn những ham muốn đó một cách bí mật; do đó, biện pháp bảo vệ duy nhất có thể trấn an người khác là sự hiện diện của sự khiêm tốn và dè dặt nghiêm ngặt. Nhưng một khi rào cản này bị phá vỡ, gần như không thể khôi phục hoàn toàn sự tự tin. Ngược lại, nếu một người đàn ông tỏ ra hèn nhát trong một trường hợp, anh ta có thể lấy lại danh dự bằng cách hành động dũng cảm vào một lúc khác. Nhưng một người phụ nữ, sau khi đã sống phóng túng, có thể làm gì để chứng minh một cách thuyết phục rằng cô ấy đã thay đổi cách sống và có đủ khả năng tự chủ để duy trì quyết tâm đó?

 

M 6.15, SBN 239-40

Tất cả mọi người, đúng là vậy, đều khao khát hạnh phúc như nhau; nhưng ít ai thành công trong việc theo đuổi: Một nguyên nhân đáng kể là sự thiếu SỨC MẠNH TINH THẦN – sự kiên định giúp họ cưỡng lại cám dỗ của sự dễ dàng hay khoái lạc tức thời, và bám chặt vào việc theo đuổi những lợi ích xa vời và lâu dài hơn. Khi nhìn đời sống một cách tổng quát, cảm xúc và khuynh hướng của chúng ta đặt ra những quy tắc ứng xử nhất định và những cách thức nhất định để xếp hạng thứ này lên trên thứ khác. Những quyết định này thực sự là sản phẩm của những tình cảm điềm tĩnh và những khuynh hướng ổn định của chúng ta – bởi vì còn điều gì khác có thể khiến chúng ta đánh giá một đối tượng là đáng mong muốn hay không đáng mong muốn? Tuy nhiên, bằng cách lạm dụng ngôn ngữ, chúng ta gọi chúng là mệnh lệnh của lý trí thuần túy hay sự suy ngẫm. Nhưng ngay khi một số đối tượng đến gần hơn với chúng ta, hoặc tình cờ được trình bày dưới một góc nhìn tích cực, khơi gợi trí tưởng tượng, những quyết tâm đã được xác định của chúng ta thường dao động: có thể chọn một thú vui nhỏ nhặt, nhưng hậu quả là sự xấu hổ và đau buồn dai dẳng. Các nhà thơ có thể dùng tất cả sự dí dỏm và tài hùng biện của họ để ca ngợi những thú vui hiện tại và chế giễu mọi mối bận tâm xa vời – dù đó là danh tiếng, sức khỏe hay vận mệnh. Nhưng rõ ràng sự nuông chiều thiển cận như vậy chính là gốc rễ thực sự của tệ nạn, rối loạn, hối tiếc và đau khổ. Người có tính khí mạnh mẽ và kiên định sẽ hành động khác. Người này bám chặt vào những giải quyết tổng quát, không lay chuyển trước những cám dỗ của lạc thú hay những đe dọa của đau khổ, và luôn hướng tới những mục tiêu xa hơn, nhờ đó người này không chỉ đảm bảo hạnh phúc mà còn cả danh dự.

 

M 6.16, SBN 240

Sự tự mãn, ít nhất ở một mức độ nào đó, cũng thuộc về kẻ NGU NGỐC như người KHÔN NGOAN. Nhưng đó là hoàn cảnh thuận lợi duy nhất mà họ bằng nhau; trong mọi hoàn cảnh khác của đời sống, họ cách xa nhau một trời một vực. Trong kinh doanh, trong học tập, trong giao tiếp, kẻ ngu ngốc hoàn toàn bất tài; và trừ khi bị địa vị ép buộc phải làm những công việc lao động chân tay thấp kém nhất, hắn ta vẫn chỉ là một gánh nặng vô dụng cho thế gian. Chính vì lý do này mà con người rất nhạy cảm với danh tiếng của mình trong vấn đề này; và nhiều trường hợp được thấy về sự hoang tàng dâm lọan và phản bội, những hành vi được công khai và không che giấu nhất; nhưng không ai có thể kiên nhẫn chịu đựng được việc bị gọi là đần độn hay ngu ngốc. (Lời buộc tội ngu ngốc còn gây tổn thương sâu xa hơn cả những lời buộc tội vô đạo đức, bởi vì nó chạm đến chính ý thức về giá trị và năng lực của một con người). Dicaearchus, vị tướng người Macedonia, người mà—như Polybius kể lại [28], —đã công khai dựng một bàn thờ cho sự vô đạo và một bàn thờ khác cho sự bất công, như thể thách thức chính loài người, vậy mà tôi tin chắc rằng, ông ấy sẽ giật mình khi bị gọi là kẻ ngu ngốc, và sẽ tìm cách trả thù cho sự sỉ nhục nghiêm trọng đó. Ngoại trừ tình cảm của cha mẹ, mối liên kết bền chặt và không thể tách rời nhất trong tự nhiên, không có liên hệ nào đủ sức mạnh để hỗ trợ sự ghê tởm phát sinh từ nhân cách này. Ngay cả tình yêu, vốn có thể chịu đựng sự phản bội, vô ơn, ác ý và không chung thuỷ, cũng sẽ ngay lập tức bị dập tắt khi sự ngu dại bị nhận ra và thừa nhận. Cả dị hình xấu xí lẫn tuổi già đều không thể hủy hoại sức mạnh của tình yêu. Thật khủng khiếp là những ý tưởng của một sự bất lực tộ cùng cho bất kỳ mục đích hoặc đảm nhận nào, và liên tục sai lầm và hành vi sai trái trong đời sống!

 

 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(May/2025)

(Còn tiếp... )

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 



[1] Con lừa của nhà học giả” là một ẩn dụ trong triết học trung cổ: một con lừa bị đặt giữa hai đống cỏ khô bằng nhau sẽ chết đói vì nó không thể lựa chọn. Hume dùng hình ảnh này để minh họa một người hoàn toàn thờ ơ với người khác, không có khả năng ưu tiên cái thiện hơn cái ác.

[2] Oliver Cromwell (1599–1658) – Nhà lãnh đạo quân sự và chính trị người Anh, người đã chỉ huy lực lượng của Quốc hội trong Nội chiến Anh và cai trị với tư cách là Lãnh chúa Bảo hộ; nổi tiếng với tham vọng táo bạo và rộng lớn. Thày chăn chiên “áo đỏ” de Retz (1613–1679) – Thày tu Kitô và chính khách người Pháp nổi tiếng với những âm mưu chính trị táo bạo trong những cuộc nội chiến được gọi là Fronde. Tiến sĩ Jonathan Swift (1667–1745) – Nhà văn châm biếm người Anh-Ireland và là tác giả của Gulliver du ký, thường được trích dẫn bởi những câu chữ sắc sảo, mỉa mai. Polyphemus – Người khổng lồ một mắt trong sử thi Odyssey của Homer; sau khi Odysseus làm mù mắt hắn, kích thước và sức mạnh to lớn của hắn không thể cứu hắn, khiến hắn trở thành hình ảnh kinh điển về quyền lực bị hủy hoại bởi thiếu tầm nhìn hoặc tầm nhìn xa.

[3] St. Évremond (1613–1703) là một nhà văn, quân nhân và nhà thông thái người Pháp, nổi tiếng với những bức thư, tiểu luận trau chuốt và những suy tưởng đạo đức.