Tuesday, October 7, 2025

Hume – Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức (08)


Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đứ

(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)

 

David Hume

 

( ← ... tiếp theo )

 

 


MỤC VI.

Về Những Phẩm Tính Có Ích Cho Bản Thân Chúng Ta.

 

PHẦN I.

 

M 6.1, SBN 233

Có vẻ hiển nhiên rằng, bất cứ khi nào chúng ta xem xét một phẩm tính hay thói quen, nếu nó có vẻ gây thiệt hại cho chính người có nó, hay những gì làm người này thành bất lực với những công việc thực tế hoặc hành động hiệu quả, thì nó ngay lập tức bị chỉ trích và bị xếp vào hàng những lỗi lầm và khuyết điểm của người đó. Sự lười biếng, cẩu thả, thiếu trật tự và phương pháp, cố chấp, hay thay đổi, sự hấp tấp, sự dễ tin; những phẩm tính này chưa bao giờ được ai coi là không ảnh hưởng đến nhân cách; càng không được ca tụng như những thành tựu hay đức hạnh. Tác hại xuất phát từ chúng, ngay lập tức đập vào mắt chúng ta, và khiến chúng ta cảm thấy khó chịu và không tán thành.

 

M 6.2, SBN 233

Không có phẩm tính nào, khi trở thành một phần trong nhân cách của chúng ta, tự thân đã hoàn toàn đáng trách hay đáng khen. Mọi thứ phụ thuộc vào mức độ mà phẩm tính đó hiện diện. Như những người theo Aristotle (Peripatetics) đã nói, đức hạnh được đánh dấu bởi sự cân bằng, mức độ vừa phải. Nhưng sự cân bằng này chủ yếu được đánh giá dựa trên tính hữu ích. Lấy sự nhanh nhẹn và hiệu quả trong công việc làm ví dụ – đó là những phẩm tính đáng ngưỡng mộ. Nếu thiếu chúng, mọi việc sẽ không bao giờ hoàn thành. Nhưng nếu quá mức, nó đẩy chúng ta vào những quyết định và hành động vội vàng, thiếu suy tính. Bằng những lý lẽ như vậy, chúng ta xác định được sự cân bằng thích đáng và đáng khen trong mọi vấn đề về đạo đức và phán đoán thực tiễn – luôn luôn ghi nhớ những lợi ích mà một nhân cách hay thói quen cụ thể mang lại. [1]

 

M 6.3, SBN 234

Bây giờ, vì những lợi thế này được người có nhân cách này hưởng thụ, nên không bao giờ là tình cảm vị kỷ khiến cho viễn cảnh của chúng khiến chúng ta, những người quan sát, cảm thấy thích thú khi nhìn thấy chúng, và thúc đẩy chúng ta kính trọng và tán thành người đó. Không một sức mạnh tưởng tượng nào có thể biến đổi chúng ta thành một cá nhân khác, và khiến chúng ta tưởng tượng rằng chính chúng ta, với tư cách là người đó, gặt hái lợi ích từ những phẩm tính quí giá đó, vốn thuộc về người đó. Hay nếu nó có xảy ra, thì cũng không một sự nhanh nhạy nào của trí tưởng tượng có thể ngay lập tức đưa chúng ta trở về với chính chúng ta, khiến chúng ta yêu thương và trân trọng người đó, như một cá thể khác biệt với chúng ta. Những quan điểm và tình cảm, trái ngược hoàn toàn với sự thực đã biết, và trái ngược với nhau, không bao giờ có thể đồng thời hiện hữu vào cùng một thời điểm trong cùng một con người. Do đó, mọi hoài nghi về động cơ vị kỷ, hoàn toàn bị loại trừ ở đây. Đó là một nguyên lý hoàn toàn khác, lay động trái tim chúng ta và khiến chúng ta quan tâm đến hạnh phúc của người mà chúng ta nhìn thấy. Khi tài năng bẩm sinh và những khả năng có được của người đó, hứa hẹn một vị trí được kính trọng trong xã hội, thành công cá nhân, nắm giữ vững chắc những biến cố của vận mệnh, và khả năng hoàn thành những công việc lớn lao và hữu ích – chúng ta bị ấn tượng bởi những hình ảnh dễ chịu đó và ngay lập tức cảm thấy một cảm giác hài lòng và kính trọng đối với người đó. Những ý tưởng về hạnh phúc, vui sướng, chiến thắng, thịnh vượng gắn liền với mọi khía cạnh trong nhân cách của người đó và lan tỏa trong não thức chúng ta một cảm giác dễ chịu của sự đồng cảm và lòng nhân đạo [26].

 

M 6.4, SBN 235

Hãy giả định một người ngay từ đầu đã được tạo với bởi tư chất là không hề quan tâm đến đồng loại của mình. và xem hạnh phúc hay đau khổ của mọi sinh vật hữu tình còn dửng dưng hơn là việc chúng ta quan tâm đến phân biệt hai sắc thái gần như không thể phân biệt được của cùng một màu. Giả định sự thịnh vượng của những quốc gia được đặt ở một bên, còn sự diệt vong của chúng ở bên kia, và người ta muốn người này phải lựa chọn; rằng người này sẽ đứng, giống như con lừa của nhà triết học kinh viện [2], do dự và không xác định, giữa hai động cơ ngang nhau; hay đúng hơn, giống như cùng một con lừa giữa hai miếng gỗ hay đá cẩm thạch, không có bất kỳ thôi thúc hay khuynh hướng tự nhiên nào để thiên về bên này hơn bên kia. Tôi tin rằng, phải nhìn nhận chắc chắn, một người như vậy – hoàn toàn thờ ơ với lợi ích chung của xã hội và lợi ích riêng của người khác – sẽ nhìn mọi phẩm chất – bất kể chúng có gây hại hay có lợi cho xã hội hay cho người sở hữu chúng – với cùng một thái độ thờ ơ giống như đối với bất kỳ đối tượng tầm thường và nhàm chán nhất.

 

M 6.5, SBN 235-6

Nhưng nếu, thay vì sinh vật vô cảm tưởng tượng này, chúng ta giả định một con người thực, trong trường hợp hình thành một phán đoán hay quyết định, vẫn có một nền tảng rõ rệt của sở thích lựa chọn cho người này, khi tất cả những gì khác đều ngang nhau và dù sự lựa chọn của người này có lạnh lùng đến đâu, nếu trái tim người này vị kỷ, hay nếu những người được lợi hay chịu thiệt hại từ kết quả đó lại ở rất xa; vẫn phải có sự lựa chọn hay phân biệt giữa điều gì có lợi và điều gì có hại. Giờ đây, sự phân biệt này giống nhau trong tất cả những phần của nó, với sự khác biệt về đạo đức, vốn nền tảng của nó đã thường được tìm hiểu rất nhiều, và cũng rất nhiều không kết quả. Cùng một năng khiếu của trí óc, trong mọi hoàn cảnh, đều dễ chịu với tình cảm của đạo đức và của loài người; cùng một tính khí dễ bị ảnh hưởng ở mức độ cao của cả tình cảm này và tình cảm kia; và cùng một sự thay đổi trong những đối tượng, bằng cách tiếp cận gần hơn hay bằng những kết nối của chúng, làm sống động cả hai. Do đó, theo tất cả những quy luật của triết học, chúng ta phải kết luận rằng những tình cảm này ban đầu là giống nhau; vì trong từng chi tiết cụ thể, ngay cả những chi tiết nhỏ nhất, chúng đều chịu sự chi phối của cùng một quy luật và chịu tác động bởi cùng một đối tượng.

 

M 6.6, SBN 236

Tại sao những nhà triết học lại suy luận, với sự chắc chắn nhất, rằng mặt trăng giữ trên quỹ đạo của nó bởi cùng một lực hấp dẫn, lực khiến những vật thể rơi xuống mặt Trái Đất, chỉ vì những tác động này, khi tính toán, tìm thấy là giống nhau và bằng nhau? Và tại sao lập luận này không mang lại vững tin mạnh mẽ, trong đạo đức như trong những nghiên cứu về tự nhiên?

 

M 6.7, SBN 236

Việc chứng minh, bằng bất kỳ chi tiết dài dòng nào, rằng tất cả những phẩm tính có lợi cho người có chúng, đều được chấp nhận, còn ngược lại bị chỉ trích, sẽ là thừa thãi. Chỉ cần suy ngẫm một chút về những gì kinh nghiệm hàng ngày trong đời sống cũng đủ. Chúng ta sẽ chỉ nhắc một ít thí dụ, để xóa bỏ, nếu có thể, mọi hoài nghi và do dự.

 

M 6.8, SBN 236-7

Phẩm tính thiết yếu nhất để thực hiện bất kỳ công việc hay dự án hữu ích nào là SỰ THẬN TRỌNG; nhờ đó chúng ta có thể tiếp tục giao tiếp an toàn với những người khác, quan tâm đúng mức đến tính cách của bản thân chúng ta và của họ, cân nhắc từng hoàn cảnh của công việc chúng ta đảm nhận và dùng những phương tiện chắc chắn và an toàn nhất để đạt được bất kỳ cứu cánh hay mục tiêu nào. Có lẽ với một Cromwell, hay một De Retz, sự thận trọng có thể, như Tiến sĩ Swift gọi đùa, dường như là một đức tính “giống như của một nghị viên thành phố” – quá chậm chạp và thận trọng so với những dự định to lớn vốn dũng cảm và tham vọng của họ thúc đẩy – và ở những người như vậy, nó thậm chí có thể bị coi là một khuyết điểm hay một sự thiếu sót. Nhưng trong đời sống thường nhật, không có đức hạnh nào cần thiết hơn đức hạnh này, không chỉ để đạt được thành công nhưng còn để tránh những sai lầm và thất vọng tai hại nhất. Những tài năng lớn nếu không có sự thận trọng có thể hủy hoại chính chủ nhân của chúng, như một tác giả tài hoa đã từng nhận xét, giống như gã khổng lồ Polyphemus, sau khi mất một mắt, trở nên nguy hiểm hơn vì sức mạnh và vóc dáng to lớn của gã. [3]

 

M 6.9, SBN 237

Thật vậy, nhân cách tốt nhất, nếu không quá toàn hảo so với bản chất con người, là nhân cách không bị chi phối bởi bất kỳ loại tính khí nào; nhưng khôn ngoan cân bằng giữa sáng kiến ​​táo bạo và sự kiềm chế thận trọng, dùng cả hai khi tình huống đòi hỏi, vì mỗi chúng đều có ích cho mục đích cụ thể đã định. Đó chính là sự xuất sắc vốn St. Evremond dành cho thống chế Turenne, người đã thể hiện sự táo bạo hơn trong mọi chiến dịch khi ông già đi; và giờ đây, nhờ kinh nghiệm lâu năm, ông đã hoàn toàn quen thuộc với mọi bất ngờ trong chiến tranh, ông tiến lên với sự kiên định và an toàn hơn trên một con đường vốn ông rất quen thuộc. Machiavelli nhận xét rằng Fabius thận trọng, trong khi Scipio táo bạo – và cả hai đều thành công vì hoàn cảnh của Rôma phù hợp với tính khí tự nhiên của họ; mỗi người có thể sẽ thất bại nếu đặt mình vào hoàn cảnh của người kia. Một người may mắn khi hoàn cảnh phù hợp với tính cách của mình, nhưng người thực sự xuất sắc là người có thể điều chỉnh tính khí của mình cho phù hợp với bất kỳ hoàn cảnh nào.[4]

 

M 6.10, SBN 237

Cần gì phải ca ngợi sự CẦN CÙ, hay tán dương lợi ích của nó trong việc đạt được quyền lực, của cải, và trong tạo dựng những gì vốn chúng ta gọi là thành công trên đời? Câu chuyện ngụ ngôn dạy rằng, nhờ sự kiên trì bền bỉ, rùa đã vượt xa thỏ, mặc dù thỏ nhanh nhẹn hơn nhiều. Thời gian của một người, khi được quản lý khôn ngoan, giống như một cánh đồng được chăm sóc kỹ lưỡng –  nơi một ít sào đất sản xuất nhiều lợi ích cho đời sống hơn là những vùng đất rộng lớn màu mỡ bị bỏ hoang và mọc đầy cỏ dại và gai góc.

 

M 6.11, SBN 237-8

Nhưng mọi triển vọng thành công trong đời sống, hoặc ngay cả duy trì một cuộc sống tạm ổn, đều phải thất bại nếu thiếu một tính CẦN KIỆM [5] đúng mực. Của cải hay tài sản của một người, thay vì tăng lên, lại ngày càng giảm đi, khiến người sở hữu nó càng bất hạnh hơn; vì nếu người này không thể kiềm chế chi tiêu khi có thu nhập lớn thì sẽ khó có thể sống hài lòng khi thu nhập nhỏ. Theo Plato [27], những hồn người, bị những ham muốn không trong sạch thiêu đốt, và sau khi mất đi thể xác, vốn là phương tiện duy nhất mang lại sự thỏa mãn, sẽ bay lượn trên mặt đất và lai vãng, ám ảnh những nơi vốn cơ thể họ được chôn cất; bị ám ảnh bởi một mong muốn khao khát phục hồi những cơ quan đã mất của cảm giác. Cũng vậy, chúng ta có thể thấy Những người hoang đàng vô giá trị, đã tiêu hết tài sản của họ vào những trụy lạc ngông cuồng, lao vào mọi bàn tiệc thịnh soạn và mọi đình đám vui chơi, bị ngay cả những người độc ác ghét bỏ và những người ngu ngốc khinh miệt.

 

M 6.12, SBN 238

Một thái cực của tính cần kiệm là tính tham lam [6] – sự tích trữ của cải một cách keo kiệt –điều này, bằng cách ngăn cản một người dùng của cải của mình, kìm hãm lòng hiếu khách và mọi thú vui xã hội, đáng bị chỉ trích vì hai lý do. Còn thái cực kia, tính hoang phí, thường gây hại nhiều hơn cho chính người đó. Mỗi thái cực này bị chỉ trích nhiều hay ít tùy thuộc vào tính cách của người đánh giá, và tùy vào mức độ nhạy cảm nhiều hay ít của người đó với thú vui, dù là xã hội hay nhục dục.

 

M 6.13, SBN 238

Những phẩm tính thường nhận được giá trị từ những nguồn phức tạp. Sự trung thực, lòng trung thành, sự chân thật được ca ngợi vì có tác dụng trực tiếp trong việc thúc đẩy lợi ích của xã hội; nhưng một khi những đức tính này được thiết lập trên nền tảng này, chúng cũng được coi là có lợi cho chính bản thân người đó, đóng vai trò là nền tảng của tin cậy và tín nhiệm, những yếu tố duy nhất có thể khiến một người được coi trọng trong đời sống. Một người không chỉ trở nên đáng ghét mà còn đáng khinh, khi bỏ bê nghĩa vụ phải có, về mặt này, đối với cả bản thân và xã hội.

 

M 6.14, SBN 238-9

Có lẽ, sự cân nhắc này là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự chỉ trích nặng nề đối với bất kỳ trường hợp không giữ được trinh tiết của phụ nữ. Sự tôn trọng lớn nhất mà phái nữ có thể đạt được chính là lòng chung thủy; và một người phụ nữ trở nên rẻ rúng và thô tục, mất đi địa vị và phải chịu mọi sự sỉ nhục nếu thiếu sót điều này. Chỉ một sai sót nhỏ nhất cũng đủ để hủy hoại nhân cách của người này. Một người phụ nữ có quá nhiều cơ hội để âm thầm thỏa mãn những ham muốn này, đến nỗi không gì có thể thực sự đảm bảo với chúng ta ngoài sự trinh trắng kiên định, sự kín đáo và sự kiềm chế cẩn thận trong hành vi và thái độ của người này; và một khi đã vi phạm, khó có thể sửa chữa hoàn toàn. Nếu một người nam một lần thể hiện sự hèn nhát, một hành động can đảm sau đó có thể khôi phục danh dự của người này. Nhưng một người phụ nữ, nếu đã từng buông thả, có thể làm gì để thuyết phục chúng ta rằng người này đã thay đổi và có đủ nghị lực để thực hiện những quyết tâm tốt đẹp hơn?

 

M 6.15, SBN 239-40

Tất cả mọi người, đúng là vậy, đều khao khát hạnh phúc như nhau; nhưng ít ai thành công trong việc theo đuổi: Một nguyên nhân đáng kể là thiếu SỨC MẠNH của TINH THẦN – vốn có thể cho họ khả năng cưỡng lại sự cám dỗ của sự dễ dàng hay lạc thú hiện tại, và đưa họ tiến về phía trước trong việc theo đuổi những lợi ích và hưởng thụ xa hơn. Khi nhìn đời sống một cách tổng quát, cảm xúc và khuynh hướng của chúng ta đặt ra những quy tắc ứng xử nhất định và những thước đo nhất định để xếp hạng thứ này lên trên thứ khác. Những quyết định này thực sự là sản phẩm của những tình cảm điềm tĩnh và những khuynh hướng ổn định của chúng ta – bởi vì còn điều gì khác có thể khiến chúng ta đánh giá một đối tượng là đáng mong muốn hay không đáng mong muốn? Tuy nhiên, do một cách tự nhiên dùng từ sai lệch, chúng lại được gọi là những quyết định của lý trí và sự suy ngẫm thuần túy. Nhưng khi một số đối tượng này đến gần hơn với chúng ta, hoặc tình cờ được trình bày dưới một góc nhìn tích cực, khơi gợi trí tưởng tượng, những quyết định tổng quát của chúng ta thường bị lật đổ, một hưởng thụ nhỏ nhặt, chóng vánh được chọn thay thế, và hậu quả là sự xấu hổ và hối tiếc kéo dài đè nặng lên chúng ta. Những nhà thơ có thể dùng tất cả sự dí dỏm và tài hùng biện của họ để ca ngợi những thú vui hiện tại và ném bỏ mọi bận tâm xa vời – dù đó là danh tiếng, sức khỏe hay tài sản, thì rõ ràng rằng lối sống này chính là nguồn gốc của mọi sự mọi sự sa đọa, hỗn loạn, hối hận và khổ đau. Một người có một tính khí mạnh mẽ và kiên định sẽ bám chặt vào những những quyết tâm lâu dài, không bị mê hoặc bởi sự cám dỗ của lạc thú, cũng không run sợ trước những đe dọa của đau khổ, và luôn hướng tới những mục tiêu xa hơn, nhờ đó đồng thời đảm bảo cả hạnh phúc lẫn danh dự của mình.

 

M 6.16, SBN 240

Sự tự mãn, ít nhất ở một mức độ nào đó, cũng thuộc về kẻ NGU NGỐC như người KHÔN NGOAN. Nhưng đó là hoàn cảnh thuận lợi duy nhất mà họ bằng nhau; trong mọi hoàn cảnh khác của đời sống, họ cách xa nhau một trời một vực. Trong kinh doanh, trong học tập, trong giao tiếp, kẻ ngu ngốc hoàn toàn bất tài; và trừ khi bị địa vị ép buộc phải làm những công việc lao động chân tay thấp kém nhất, hắn ta vẫn chỉ là một gánh nặng vô dụng cho thế gian. Chính vì lý do này mà con người rất nhạy cảm với danh tiếng của mình trong vấn đề này; và nhiều trường hợp được thấy về sự hoang tàng dâm loạn và phản bội, những hành vi được công khai và không che giấu nhất; nhưng không ai có thể kiên nhẫn chịu đựng được việc bị gọi là đần độn hay ngu ngốc. (Lời buộc tội ngu ngốc còn gây tổn thương sâu xa hơn cả những lời buộc tội vô đạo đức, bởi vì nó chạm đến chính ý thức về giá trị và năng lực của một con người). Dicaearchus, vị tướng người Macedonia, người mà – như Polybius kể lại [28], – đã công khai dựng một bàn thờ cho sự vô đạo và một bàn thờ khác cho sự bất công, như thể thách thức chính loài người, vậy mà tôi tin chắc rằng, ông ấy sẽ giật mình khi bị gọi là kẻ ngu ngốc, và sẽ tìm cách trả thù cho sự sỉ nhục nghiêm trọng đó. Ngoại trừ tình cảm của cha mẹ, mối liên kết bền chặt và không thể tách rời nhất trong tự nhiên, không có liên hệ nào đủ sức mạnh để hỗ trợ sự ghê tởm phát sinh từ nhân cách này. Ngay cả tình yêu, vốn có thể chịu đựng sự phản bội, vô ơn, ác ý và không chung thuỷ, cũng sẽ ngay lập tức bị dập tắt khi sự ngu dại bị nhận ra và thừa nhận. Cả dị hình xấu xí lẫn tuổi già đều không thể hủy hoại sức mạnh của tình yêu. Thật khủng khiếp là những ý tưởng của một sự bất lực tộ cùng cho bất kỳ mục đích hoặc đảm nhận nào, và liên tục sai lầm và hành vi sai trái trong đời sống!

 

M 6.17, SBN 240-1

Khi được hỏi, liệu một sự hiểu biết nhanh hay chậm có giá trị hơn? Liệu có tốt hơn khi có một trí tuệ nắm bắt mọi sự vật việc ngay lập tức nhưng không thể đạt được gì qua nỗ lực bền bỉ, hoặc một trí óc phải kiên nhẫn và nhất quán để đạt được kết luận? Liệu một cái đầu minh mẫn hay một phát minh phong phú? Liệu một thiên tài uyên bác hay một phán đoán chắc chắn? Tóm lại, tính cách hay góc nhìn đặc biệt nào xuất sắc hơn tính cách hay góc nhìn đặc biệt nào?. Giá trị của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào phẩm chất nào trong số này phù hợp nhất với một người trong thế giới và đưa người đó đi xa nhất trong sự nghiệp của mình.

 

M 6.18, SBN 241

Nếu cảm giác tế nhị và cảm giác cao quý không ích lợi như kiến thức thực tiễn thông thường, thì sự hiếm có, sự mới lạ của chúng, và sự cao quý của những đối tượng của chúng cũng có phần bù đắp và khiến chúng được loài người ngưỡng mộ: Giống như vàng, mặc dù ít hữu ích hơn sắt, nhưng từ sự khan hiếm của nó, nó có được một giá trị cao hơn nhiều.

 

M 6.19, SBN 241

Những khiếm khuyết trong phán đoán hiếm khi có thể được bù đắp bằng bất kỳ kỹ thuật khéo léo hay phương pháp nào; nhưng những thiếu sót về trí nhớ thường có thể, cả trong công việc lẫn học tập, bằng phương pháp và sự cần cù, và bằng sự siêng năng trong việc ghi chép mọi sự vật việc. Thật vậy, ngày nay chúng ta hiếm khi nghe thấy trí nhớ kém được coi là nguyên nhân dẫn đến thất bại trong bất kỳ công việc nào. Tuy nhiên, vào thời cổ đại, khi việc diễn thuyết trước công chúng là thiết yếu đối với danh tiếng của một người và khán giả đòi hỏi những bài diễn thuyết được chuẩn bị kỹ lưỡng và trau chuốt, trí nhớ lại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Do đó, nó được coi trọng hơn nhiều so với thời đại của chúng ta. Hầu như mọi thiên tài lừng lẫy thời cổ đại đều được ca ngợi vì khả năng này, và Cicero thậm chí còn liệt kê nó vào danh sách những phẩm chất cao cả khác của chính Caesar [29].

 

M 6.20, SBN 242

Những phong tục và lối sống khác nhau thay đổi cách nhìn nhận sự hữu ích của một số phẩm chất nhất định – và cũng thay đổi giá trị vốn chúng ta gán cho chúng. Những hoàn cảnh hay sự kiện ngẫu nhiên cụ thể cũng có tác động tương tự. Một người sẽ luôn được coi trọng hơn khi tài năng và thành tựu của người này phù hợp với vị trí hay nghề nghiệp người này đảm nhiệm, hơn là khi số phận đặt người này vào một vị trí không phù hợp với năng lực. Về mặt này, những đức hạnh riêng tư hay vị kỷ (chủ yếu mang lại lợi ích cho cá nhân, chứ không phải cho xã hội) phụ thuộc nhiều hơn vào hoàn cảnh so với những đức hạnh đức hạnh công cộng và xã hội. Tuy nhiên, về những phương diện khác, có lẽ chúng ít bị hoài nghi và tranh luận hơn.

 

M 6.21, SBN 242-3

Trong vương quốc này [7], trong những năm gần đây, một sự phô trương liên tục về đức hạnh giả tạo đã thịnh hành – giữa những người hành động, trong đời sống công cộng và nghề nghiệp, dưới danh nghĩa tinh thần công cộng; và giữa những nhà tư tưởng và triết gia, dưới danh nghĩa lòng từ thiện; và rất nhiều tuyên bố sai lệch về cả hai đức hạnh này, không hoài nghi gì, đã bị tìm ra, đến nỗi những người thế tục, mặc dù không có ý xấu, đã trở nên hoài nghi lặng lẽ về những phẩm chất đạo đức này, và đôi khi thậm chí còn đi xa đến mức phủ nhận sự tồn tại và hiện thực của chúng. Tương tự như vậy, tôi thấy rằng, ngày xưa, sự giả dối liên tục của những người theo thuyết Stoics và phái hoài nghi về đức hạnh – lời lẽ thì hùng hồn nhưng hành động lại yếu đuối – đã khơi dậy một chán ghét trong loài người. Ngay cả Lucian,[8] người buông thả trong dục lạc cá nhân nhưng lại là một nhà văn rất đạo đức, cũng không thể nói về đức hạnh – một điều được khoe khoang rất nhiều – mà không để lộ dấu hiệu khó chịu và mỉa mai. [30]. Nhưng chắc chắn rằng sự khó chịu tế nhị này, dù xuất phát từ đâu, không bao giờ có thể đi xa đến mức làm chúng ta phủ nhận sự hiện hữu của mọi loại công đức, và tất cả sự phân biệt về cư xử và hành vi. Ngoài sự kín đáo, thận trọng, đảm đương, chăm chỉ cần mẫn, chuyên cần, cần kiệm, tiết kiệm, đoán thực tiễn, sự thận trọng, nhận thức sáng suốt; bên cạnh những đức hạnh này, tôi xin nói, chỉ riêng tên gọi của chúng đã buộc ta phải thừa nhận giá trị của chúng, còn nhiều đức hạnh khác, ngay cả sự hoài nghi quyết liệt nhất cũng không thể chối từ việc dành cho chúng lời khen ngợi và sự tán thưởng, dù chỉ trong khoảnh khắc. Sự tiết độ, tỉnh táo, kiên nhẫn, bền bỉ, biết nhìn xa tính trước, chu đáo, kín đáo, ngăn nắp, khéo léo gây cảm tình, Khéo ứng xử, bình tĩnh sáng suốt, thấu hiểu nhanh và diễn đạt lưu loát, Những đức hạnh này, và hàng ngàn đức hạnh khác cùng loại, không người nào sẽ có thể phủ nhận là những gì xuất sắc và toàn hảo. Vì giá trị của những đức hạnh này nằm ở cách chúng phục vụ cá nhân sở hữu chúng, nhưng không phải ở bất kỳ tham vọng cao siêu nào về công trạng hay xã hội, nên chúng ta ít có khuynh hướng đặt câu hỏi về chúng và sẵn sàng nhìn nhận chúng trong danh sách những phẩm chất đáng khen ngợi. Tuy nhiên, chúng ta không nhận ra rằng, bằng cách dành cho chúng vị trí này, chúng ta đã dọn đường cho tất cả những đức tính đạo đức cao hơn, và không thể cứ mãi do dự về thực tại của lòng nhân ái vô tư, lòng yêu nước và lòng nhân đạo.

 

M 6.22, SBN 243-4

Quả thực, có vẻ như chắc chắn, rằng những hiện ra bên ngoài đầu tiên ở đây, như thường lệ, rất dễ gây hiểu lầm, và trong một suy diễn, việc chúng ta gán cho những đức hạnh vị kỷ đã đề cập ở trên thành tình cảm vị kỷ, còn khó hơn cả công đức của những đức hạnh xã hội, công bằng và từ thiện. Vì mục đích sau, chúng ta chỉ cần nói rằng, bất kỳ hành vi nào thúc đẩy hữu ích của cộng đồng đều được cộng đồng yêu mến, khen ngợi và coi trọng, vì hữu ích và quyền lợi vốn mọi người đều dự phần: Và mặc dù tình cảm và sự tôn trọng này, trên thực tế, là lòng biết ơn, chứ không phải lòng tự ái, nhưng một sự phân biệt, dù mang tính chất hiển nhiên này, có thể không dễ dàng được những người lý luận hời hợt đưa ra; và ít nhất, vẫn có chỗ để ủng hộ sự tranh luận và tranh luận trong giây lát. Nhưng vì những phẩm tính, vốn chỉ hướng đến hữu ích của người sở hữu, không liên quan gì đến chúng ta hay cộng đồng, vẫn được coi trọng và ước định cao; bằng lý thuyết hay hệ thống nào chúng ta có thể giải thích tình cảm này từ lòng tự ái, hay suy ra nó từ nguồn gốc ưa thích đó? Dường như ở đây cần phải công nhận rằng hạnh phúc và bất hạnh của người khác không phải là những cảnh tượng hoàn toàn thờ ơ với chúng ta; nhưng cái nhìn về hạnh phúc và bất hạnh, dù là nguyên nhân hay kết quả, như ánh nắng mặt trời hay viễn cảnh về những đồng bằng được canh tác tốt (không muốn nói quá) đều mang đến một vui sướng và sự thỏa mãn thầm kín; còn cái nhìn về hạnh phúc và bất hạnh, như một đám mây đen hay một cánh đồng cằn cỗi, lại phủ lên trí tưởng tượng một u sầu. Và một khi đã nhượng bộ, khó khăn sẽ hết; và chúng ta hy vọng rằng, sau này, một cách diễn giải tự nhiên, không cưỡng ép về những hiện tượng của đời sống con người sẽ chiếm ưu thế trong số những người tìm hiểu suy diễn.

 

PHẦN II.

 

M 6.23, SBN 244

Ở đây, có lẽ không phải là không thích hợp khi xem xét ảnh hưởng của những đặc điểm thể chất và và lợi thế vật chất ảnh hưởng hưởng đến cảm xúc kính trọng và quý mến của chúng ta, và xem xét liệu những sự kiện này có củng cố hay làm suy yếu lý thuyết hiện tại hay không. Dĩ nhiên, người ta kỳ vọng rằng cái đẹp của cơ thể, như tất cả những nhà đạo đức học thời cổ vẫn cho là, ở một số phương diện, sẽ tương đồng với cái đẹp của tâm hồn; và rằng mọi loại sự kính trọng mà chúng ta dành cho một người đều phải xuất phát từ một nguồn gốc tương tự, cho dù nó bắt nguồn từ phẩm chất tinh thần hay từ hoàn cảnh bên ngoài của người đó. [9]

 

M 6.24, SBN 244

Rõ ràng, một nguồn gốc đáng kể của cái đẹp ở mọi loài động vật nằm ở tính hữu dụng của cấu trúc cơ thể chúng, có được từ cấu trúc đặc biệt của tứ chi, phù hợp với lối sống đặc thù vốn chúng được sinh ra để sống. Tỷ lệ cân đối hoàn hảo của một con ngựa, được Xenophon và Virgil mô tả từ rất lâu trước đây, vẫn được những người cưỡi ngựa hiện đại ngưỡng mộ; vì lý do đó vẫn đúng trong mọi thời đại: kinh nghiệm dạy cho chúng ta biết những hình dạng nào giúp ích hoặc cản trở con vật trong chuyển động và mục đích sống của nó.

 

M 6.25, SBN 244-5

Vai rộng, bụng thon, khớp xương chắc khỏe, chân dài; tất cả những điều này đều đẹp ở giống loài chúng ta, vì chúng là dấu hiệu của sức mạnh và sự cường tráng. Ý niệm về sự hữu ích và mặt trái của nó, mặc dù không hoàn toàn quyết định thế nào là đẹp hay xấu, rõ ràng là nguồn gốc của một phần đáng kể sự tán thành hay không tán thành.

 

M 6.26, SBN 245

Vào thời cổ, sức mạnh và sự khéo léo của cơ thể, vốn được dùng nhiều và quan trọng trong chiến tranh, cũng được coi trọng và đề cao hơn nhiều so với hiện nay. Không muốn nhấn mạnh vào Homer và những nhà thơ, chúng ta có thể nhận thấy rằng những sử gia không ngần ngại đề cập đến sức mạnh cơ thể trong số những thành tựu khác, ngay cả của Epaminondas, người vốn họ công nhận là anh hùng, chính khách và tướng lĩnh vĩ đại nhất của người Greece [31]. Một lời khen ngợi tương tự cũng được dành cho Pompey, một trong những người Rôma vĩ đại nhất [32]. Trường hợp này tương tự như những gì chúng ta đã thấy ở trên, liên quan đến trí nhớ.

 

M 6.27, SBN 245

Sự bất lực sinh lý thường đi kèm với sự chế giễu và khinh miệt ở cả hai giới; trong khi đối tượng bất hạnh bị coi là người bị tước mất một lạc thú lớn nhất của đời sống, đồng thời cũng không thể mang lại lạc thú đó cho những người khác. Sự hiếm muộn ở phụ nữ, cũng là một dạng vô dụng, cũng mang lại sự chê trách, dù ở mức độ nhẹ hơn –  sự khác biệt này dễ dàng được giải thích bằng lý thuyết đang nói ở đây. [10]

 

M 6.28, SBN 245

Trong hội họa hay điêu khắc, không có quy luật nào thiết yếu hơn việc cân bằng những hình tượng và đặt chúng vào đúng trọng tâm một cách chính xác nhất. Một hình tượng không cân bằng sẽ xấu xí; vì nó truyền tải những ý tưởng khó chịu về sự sụp đổ, tổn hại và đau đớn [33].

 

M 6.29, SBN 246

Một khả năng bẩm sinh hay phẩm chất của một người, những yếu tố giúp người này thành công trong đời sống và làm giàu trong thế giới, xứng đáng được tôn trọng và kính trọng, như đã giải thích ở trên. Do đó, có thể suy diễn một cách tự nhiên rằng việc thực sự sở hữu của cải và quyền lực sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến những cảm xúc này.

 

M 6.30, SBN 246

Chúng ta hãy xem xét bất kỳ giả thuyết nào có thể giải thích cho sự tôn trọng dành cho những người giàu có và quyền lực: Chúng ta sẽ không tìm thấy giả thuyết nào thỏa đáng ngoài giả thuyết rằng nó xuất phát từ vui thích vốn chúng ta cảm thấy khi nhìn thấy những dấu hiệu của sự thịnh vượng, hạnh phúc, sung túc, giàu có, quyền lực và sự thỏa mãn mọi ham muốn. Chẳng hạn, tình cảm vị kỷ, thứ vốn một số người quá coi là nguồn gốc của mọi cảm xúc, rõ ràng là không đủ cho mục đích này. Khi một người giàu có không thể hiện thiện chí hay thân thiện nào với chúng ta, thật khó để thấy chúng ta có thể hy vọng đạt được lợi ích gì từ họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn tự nhiên kính trọng người giàu, ngay cả trước khi họ thể hiện bất kỳ sự ưu ái nào đối với chúng ta.

 

M 6.31, SBN 246-7

Chúng ta vẫn dành sự tôn trọng tương tự cho người giàu có và quyền lực ngay cả khi chúng ta hoàn toàn nằm ngoài tầm ảnh hưởng của họ và họ không thể giúp đỡ chúng ta. Ví dụ, ở mọi quốc gia văn minh, một tù binh chiến tranh đều được đối xử với mức độ tôn trọng phù hợp với địa vị xã hội của họ –  và rõ ràng là sự giàu có của một người đóng vai trò lớn trong việc xác định địa vị đó cũng như sự tôn trọng gắn liền với nó. Nếu dòng dõi hoặc xuất thân gia đình cũng góp phần tạo nên sự tôn trọng ấy, điều này vẫn ủng hộ quan điểm trên. Một người có dòng dõi quý tộc đơn giản chỉ là hậu duệ của nhiều thế hệ tổ tiên giàu có và quyền lực, và họ nhận được sự quý trọng nhờ liên hệ với những người mà chúng ta đã khâm phục. Tổ tiên của họ, dù đã qua đời lâu, vẫn tiếp tục được tôn trọng một phần vì sự giàu có của họ –  và rõ ràng không phải vì ai đó mong đợi lợi ích nào từ họ.

 

M 6.32, SBN 247

Chúng ta không cần phải nhìn xa đến tù binh chiến tranh hay những người đã khuất để tìm thấy những ví dụ về sự tôn trọng đối với của cải không xuất phát từ lợi ích cá nhân. Chúng ta có thể dễ dàng thấy điều này trong đời sống và giao tiếp hàng ngày. Giả sử một người có cuộc sống sung túc, không có nghề nghiệp đặc biệt nào, được giới thiệu với một nhóm người lạ. Người này tự nhiên đối xử với họ với những mức độ tôn trọng khác nhau, tùy thuộc vào những gì người này biết về tài sản và địa vị xã hội của họ –  mặc dù người này không hề nghĩ đến, và thậm chí không có ham muốn, nhận được bất kỳ lợi ích vật chất nào từ họ. Tương tự, một khách du lịch được chào đón và đối xử lịch sự dựa trên những dấu hiệu bên ngoài của sự giàu có –  số người hầu theo hầu và sự sang trọng của xe ngựa cũng như phong cách di chuyển của người này, những gì tiết lộ liệu người này là người giàu có hay chỉ có của cải khiêm tốn. Tóm lại, những cấp bậc địa vị xã hội khác nhau phần lớn được quyết định bởi sự giàu có, và điều này thể hiện rõ trong cách chúng ta cư xử với cả những người trên và dưới mình, dù là người lạ hay người quen.

 

M 6.33, SBN 247-8

Những gì còn lại, do đó, khong gì ngoài việc kết luận rằng, vì sự giàu có chỉ được khao khát cho bản thân như một phương tiện để thỏa mãn những ham muốn của chúng ta, dù là ở hiện tại hay trong một tương lai tưởng tượng nào đó; chúng tạo ra sự kính trọng ở người khác chỉ đơn giản nhờ ảnh hưởng đó của họ. Đây thực sự là bản chất hay cốt lõi của chúng: Chúng liên quan trực tiếp đến vật chất tiêu dùng, tiện nghi và thú vui của đời sống: tiền giấy của một chủ ngân hàng đang khánh kiệt, hay vàng trên một đảo hoang, sẽ không còn giá trị gì nữa..Khi chúng ta tiếp cận một người mà chúng ta gọi là giàu có, chúng ta sẽ hình dung ra những ý tưởng dễ chịu về sự sung túc, thỏa mãn, sạch sẽ, ấm áp; một ngôi nhà khang trang, đồ nội thất sang trọng, dịch vụ chu đáo, và tất cả những gì đáng mơ ước về thức ăn, đồ uống hoặc quần áo. Ngược lại, khi một người nghèo xuất hiện, những hình ảnh khó chịu về sự thiếu thốn, bần hàn, lao động khổ sai, đồ đạc bẩn thỉu, quần áo thô kệch hay rách rưới, thịt ôi thiu và rượu khó uống ngay lập tức đập vào mắt chúng ta. Chúng ta còn muốn ám chỉ điều gì nữa khi nói rằng người này giàu, người kia nghèo? Và vì sự tôn trọng hay khinh miệt là hậu quả tự nhiên của những tình cảnh khác nhau trong đời sống; nên dễ dàng thấy được điều này mang lại thêm ánh sáng và bằng chứng gì cho lý thuyết trước đó của chúng ta liên quan đến mọi sự khác biệt về đạo đức [34].

 

M 6.34, SBN 248

Một người đã rũ sạch tất cả những định kiến ​​xã hội ​​lố bịch, nông cạn, và hoàn toàn chân thực và vững tin, từ kinh nghiệm cũng như triết học, rằng sự khác biệt về tài sản không tạo ra nhiều khác biệt về hạnh phúc như người ta thường tưởng tượng, một người như vậy không đánh giá sự tôn trọng của người này đối với những người khác bằng quy mô của cải hay bất động sản của họ [11]. Tất nhiên, người này bề ngoài có thể tỏ ra tôn trọng một lãnh chúa giàu có hơn là một người hầu khiêm tốn, vì sự giàu có là dấu hiệu rõ ràng và xác định nhất của địa vị xã hội. Nhưng những tình cảm bên trong của người này được điều chỉnh nhiều hơn bởi tính cách của mỗi người, hơn là bởi sự may mắn ngẫu nhiên và thất thường của sự giàu có.

 

M 6.35, SBN 248-9

Trong hầu hết những quốc gia châu Âu, thứ hạng xã hội chủ yếu đến từ di sản gia đình –  tức là tài sản thừa kế, được đánh dấu bằng những danh hiệu và vinh dự cao quý do nhà vua ban tặng. Tuy nhiên, ở England, người ta chú trọng sự giàu có và sung túc hiện tại hơn. Mỗi tập tục đều có ưu và nhược điểm riêng. Nơi nào dòng dõi quý tộc được coi trọng nhất, những tâm lý lười biếng và thiếu năng động vẫn sống trong kiêu hãnh và nhàn rỗi, chỉ nghĩ đến tổ tiên và dòng dõi lâu đời của mình. Tuy nhiên, trong những xã hội như vậy, những người hào phóng và tham vọng lại phấn đấu vì danh dự, quyền lực và sự kính trọng của công chúng. Nơi nào của cải được coi là đối tượng ngưỡng mộ tối cao, thì tham nhũng, lòng tham và sự bóc lột thường nảy sinh; nhưng đồng thời, nghệ thuật, sản xuất, thương mại và nông nghiệp lại thịnh vượng. Tôn trọng dòng dõi, vì nó khuyến khích tinh thần quân sự, phù hợp nhất với chế độ quân chủ. Tôn trọng của cải, vốn là động lực chính thúc đẩy công nghiệp, lại phù hợp hơn với những chính phủ cộng hòa. Và do đó, chúng ta thấy rằng, mỗi hình thức chính phủ này, bằng thay đổi sự hữu dụng của những tập tục đó, đã thường có một tác động tỷ lệ tương xứng trên những tình cảm của loài người.

 

--------------------------------------

 

M6.3n26

22.    Xem GHI CHÚ [FF].

 

M 6.3n26.1, SBN 234-5

Người ta có thể mạnh dạn khẳng định rằng không có bản chất con người nào đều không cảm thấy vui sướng khi chứng kiến ​​hạnh phúc của người khác –  miễn là không bị đố kỵ hay oán giận xen vào –  và cảm thấy bất an khi chứng kiến ​​cảnh khốn khổ. Phản ứng này dường như đã ăn sâu vào bản chất của chúng ta. Tuy nhiên, chỉ những tâm hồn cao thượng và rộng lượng mới bị thúc đẩy bởi những cảm xúc như vậy để chủ động tìm kiếm điều tốt đẹp cho người khác và phát triển một quan tâm chân thực đến phúc lợi của họ. Những người có nhân cách hẹp hòi hoặc vị kỷ chỉ cảm thấy một chút đồng cảm –  một tia sáng của trí tưởng tượng – vốn không đưa họ đến việc giúp đỡ những người khác nhưng chỉ đơn giản tán thành hay lên án. Do đó, một người tham lam keo kiệt có thể lớn tiếng ca ngợi sự cần cù và tiết kiệm ở người khác và xếp chúng lên trên tất cả những đức tính khác. Người này nhìn nhận những lợi ích vốn những phẩm tính này mang lại và cảm thấy phần nào hài lòng về chúng; tuy nhiên, dù có ngưỡng mộ đến đâu, người này cũng sẽ không bỏ ra một đồng nào để giúp đỡ người siêng năng vốn người này ca ngợi.

 

M 6.11n27, SBN 238

23.    Phædo.

 

M 6.16n28, SBN 240

24.    Lib. xvii. chương 35.

 

M 6.19n29, SBN 241

25.    That Latin line –  “Fuit in illo ingenium, ratio, memoria, literæ, cura, cogitatio, diligentia, etc. Philipp. 2.” –  từ Cicero’s Second Philippic ((bài diễn văn chống lại Mark Antony). Nói một cách đơn giản, nó có nghĩa là: “Trong con người đó có tài năng, lý trí, trí nhớ, học vấn, sự chăm chỉ, tư duy, sự siêng năng, v.v.” Cicero đang mô tả những khả năng tự nhiên của Antony –  thừa nhận những tài năng của ông –  trước khi tiếp tục chỉ trích cách Antony dùng chúng một cách sai lầm.Hume trích dẫn nó như một ví dụ kinh điển về việc ngay cả kẻ thù cũng có thể thừa nhận đức tính hoặc khả năng của những người mà họ đối đầu, vì tôn trọng những giá trị đích thực.

 

M 6.21n30, SBN 242

26.    Đoạn chú thích này là một loạt những trích dẫn từ những nguồn cổ điển Hume đang dùng để minh họa những ý tưởng về đức hạnh (ἀρετή, aretē) và nhận thức về nó:

Αρετην τινα και ασωματα και ληρους μηγαλη τη φωνη ξυνειροντων. Luc. Timon.” → Từ Timon của Lucian: “Một số người nói về đức hạnh bằng một giọng điệu cao cả, nhưng nó lại mờ mịt và trống rỗng, giống như lời lảm nhảm của những kẻ ngốc.”. Hume dùng câu này để chứng tỏ rằng đức hạnh đôi khi được khen ngợi bằng lời nói, nhưng lời khen ngợi có thể trống rỗng hoặc hời hợt.

Και συναγαγοντες (οι φιλοσοφοι) ενεξαπατητα μειρακια την τε Icuro-men.”→ Đại khái: “Các triết gia tập hợp thanh niên và, theo cách đánh lừa họ, tán dương đức hạnh được nhắc đến nhiều trong những vở bi kịch.” Vấn đề là: đức tính thường được thể hiện hoặc ca ngợi một cách công khai, nhưng điều này có thể gây hiểu nhầm hoặc không phản ánh đúng bản chất thực sự của nó.

Ηουπ γαρ εστιν η πολυθρυλλητος αρετη, και φυσις, και ιμαρμενη, και Vâng, ανυποστατα και κενα πραγματων ονοματα. → “Đối với những thứ được bàn tán nhiều về đức hạnh, bản chất, số phận và vận mệnh chỉ là những cái tên sáo rỗng và không có thực chất.” Hume dùng câu này để nhấn mạnh rằng những nhãn mác trừu tượng cho đức hạnh hay sự giàu có có thể tự thân chúng không thực tế –  chúng phụ thuộc vào những phẩm chất và tác động thực tế trong đời sống.

 

M6.26n31

27.    Xem GHI CHÚ [GG].

 

M 6.26n31.1, SBN 245

DIodorus Siculus, lib. xv. Có lẽ không sai khi mô tả tính cách của Epaminondas, theo cách nhà sử học phác họa, để thể hiện những tư tưởng về công trạng toàn hảo, vốn thịnh hành trong thời đại đó. Ông nói, chúng ta sẽ thấy rằng ở những con người lỗi lạc khác, mỗi người đều sở hữu một phẩm tính nổi bật, là nền tảng cho danh tiếng của họ: Ở Epaminondas, tất cả những đức hạnh đều hội tụ; sức mạnh thể chất, tài hùng biện, trí tuệ sắc bén, sự coi thường của cải, tính tình hiền lành, và điều quan trọng nhất cần lưu ý là lòng can đảm và hành xử trong chiến tranh.

 

M 6.26n32, SBN 245

28.    Câu thơ tiếng Latin— “Cum alacribus, saltu; cum velocibus, cursu; cum validis recte certabat.” (Sallust, trích dẫn bởi Vegetius) –  tạm dịch là: “Với người nhanh nhẹn, ông ấy thi nhảy; với người nhanh nhẹn, ông ấy thi chạy; với người mạnh mẽ, ông ấy thi đấu vật.” Câu thơ này mô tả một người có thể sánh ngang với người khác về mọi kỹ năng thể chất –  sự nhanh nhẹn, tốc độ và sức mạnh. Hume trích dẫn câu thơ này như một ví dụ về sự xuất sắc của cơ thể được ngưỡng mộ vì tính hữu dụng và sự hài hòa của nó, cho thấy khả năng thể chất tự nhiên được coi trọng, cũng giống như đức tính tinh thần vậy.

 

M6.28n33

29.    Xem GHI CHÚ [HH].

 

M 6.28n33.1, SBN 245-6

Tất cả mọi người đều phải chịu đau đớn, bệnh tật và ốm đau như nhau, và cũng có thể hồi phục sức khỏe và sự thoải mái. Vì những tình trạng này ảnh hưởng đến tất cả mọi người như nhau, nên chúng không tạo cơ sở cho lòng kiêu hãnh hay sự khiêm nhường, cũng không phải cho sự tôn trọng hay khinh miệt. Tuy nhiên, khi chúng ta so sánh mình với những vị gót hoặc những sinh vật hoàn hảo, thì việc chúng ta đều dễ bị tổn thương trước những yếu đuối trở thành một suy nghĩ khiêm nhường; các vị gót thường dùng sự phản ánh này để kiềm chế lòng phù phiếm và sự tự phụ. Lập luận của họ sẽ hiệu quả hơn nếu mọi người không liên tục so sánh mình với những người khác. Những yếu đuối của tuổi già đặc biệt đáng xấu hổ vì chúng gợi lên sự so sánh với tuổi trẻ. Một số bệnh tật, chẳng hạn như bệnh của nhà vua, được che giấu cẩn thận vì chúng ảnh hưởng đến người khác và có thể truyền sang con cháu. Điều tương tự cũng đúng với những căn bệnh gợi lên sự ghê tởm hoặc sợ hãi –  động kinh, loét, lở loét, ghẻ, v.v.

 

M6.33n34

30.    Xem CHÚ THÍCH [II].

 

M 6.33n34.1, SBN 248

một gì đó khác thường, và dường như không thể giải thích được trong sự hoạt động của những tình cảm của chúng ta, khi chúng ta nghĩ đến sự giàu có và địa vị của những người khác. Rất thường xuyên, sự giàu có và thịnh vượng của người khác khơi dậy lòng đố kỵ, một sự pha trộn mạnh mẽ của lòng oán ghét, và chủ yếu nảy sinh từ việc so sánh bản thân với người đó. Đồng thời, hay ít nhất là trong những khoảng thời gian rất ngắn, chúng ta có thể cảm thấy tình cảm tôn trọng, một dạng cảm xúc hay thiện chí, pha trộn với sự khiêm nhường. Mặt khác, những bất hạnh của người khác thường tạo ra lòng thương hại, một cảm giác đồng cảm quan tâm đến hạnh phúc của họ. Tình cảm thương hại này gần như gắn liền với sự khinh miệt, vốn là một loại của không ưa-thích với một pha trộn với kiêu hãnh. Tôi nêu lên những hiện tượng này chỉ để thỏa trí tò mò của những ai quan tâm đến việc nghiên cứu đạo đức. Đối với mục đích hiện tại của chúng ta, chỉ cần quan sát tổng quát rằng quyền lực và giàu có thường khơi gợi sự tôn trọng, trong khi nghèo khổ và địa vị thấp kém lại dễ gây ra sự khinh miệt –  dù đôi khi hoàn cảnh hoặc sự kiện cụ thể có thể dẫn đến ghen tị hoặc thương hại.

 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(May/2025)

(Còn tiếp... )

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 



[1] Những triết gia Peripatetics, những người theo học thuyết Aristotle, cho rằng đức hạnh nằm ở 'Sự cân bằng thích đáng ' – sự cân bằng giữa hai thái cực: thừa và thiếu (Golden Mean). Ví dụ, can đảm là cân bằng thích đáng giữa hèn nhát (thiếu tự tin) và liều lĩnh (quá tự tin). Khi Hume viết, “sự cân bằng, mức độ vừa phải”, ông đang đề cập đến học thuyết Golden Mean của Aristotle. Hume sau đó bổ sung quan điểm riêng: sự cân bằng này không được xác định bởi lý trí trừu tượng, nhưng chủ yếu dựa trên tính hữu ích – tức là nó phục vụ đời sống và xã hội con người tốt đến mức nào.

Golden Mean: Lý thuyết nổi tiếng Trung bình vàng (Mean ở đây chỉ giá trị trung bình, thí dụ trong tập hợp những số (2,4,4,5) – mean là 4 , không phải 7.5 – có thể dịch là Lý thuyết Chiết trung Vàng). Mỗi một đức hạnh là một trung bình giữa hai thái cực, mỗi thái cực là một tật xấu. Điều này được chứng minh bằng một xét nghiệm những đức hạnh khác nhau. Can đảm là một trung bình giữa hèn nhát và liều lĩnh; tính rộng rãi, giữa hoang phí và bủn xỉn; tự hào chính đáng, giữa hợm hĩnh và khiêm nhường; nhanh nhảu dí dỏm thông minh, giữa kịch cỡm trò hề và cục mịch ngán ngẩm; khiêm tốn, giữa e lệ và trâng tráo không biết xấu hổ. 

 

[2] Con lừa của nhà triết học kinh viện” là một ẩn dụ trong triết học trung cổ: một con lừa bị đặt giữa hai đống cỏ khô bằng nhau sẽ chết đói vì nó không thể lựa chọn. Hume dùng hình ảnh này để minh họa một người hoàn toàn thờ ơ với người khác, không có khả năng ưu tiên cái thiện hơn cái ác.

[3] Oliver Cromwell (1599–1658) – Nhà lãnh đạo quân sự và chính trị người Anh, người đã chỉ huy lực lượng của Quốc hội trong Nội chiến Anh và cai trị với tư cách là Lãnh chúa Bảo hộ; nổi tiếng với tham vọng táo bạo và rộng lớn. Thày chăn chiên “áo đỏ” de Retz (1613–1679) – Thày tu Kitô và chính khách người Pháp nổi tiếng với những âm mưu chính trị táo bạo trong những cuộc nội chiến được gọi là Fronde. Tiến sĩ Jonathan Swift (1667–1745) – Nhà văn châm biếm người Anh-Ireland và là tác giả của Gulliver du ký, thường được trích dẫn bởi những chữ sắc sảo, câu mỉa mai. Polyphemus – Người khổng lồ một mắt trong sử thi Odyssey của Homer; sau khi Odysseus làm mù mắt hắn, kích thước và sức mạnh to lớn của hắn không thể cứu hắn, khiến hắn trở thành hình ảnh kinh điển về quyền lực bị hủy hoại bởi thiếu tầm nhìn hoặc tầm nhìn xa.

[4] St. Évremond (1613 –1703) là một nhà văn, quân nhân và nhà thông thái người Pháp, nổi tiếng với những bức thư, tiểu luận trau chuốt và những suy tưởng đạo đức.

[5] FRUGALITY

[6] avarice

[7] Nước Anh

[8] Lucian người thành Samosata (khoảng năm 125 - sau năm 180 CN), một nhà văn châm biếm Greece

[9] Hume dựa trên một ý tưởng cổ điển, tìm thấy trong Plato, Aristotle và sau này là tư tưởng của phái Stoic, rằng vẻ đẹp thể chất phản ánh đức hạnh bên trong – sự hài hòa về hình thức phản ánh sự hài hòa về nhân cách. Người Hy Lạp đã thể hiện sự thống nhất này trong lý tưởng về một “tâm hồn lành mạnh trong một cơ thể tráng kiện (νοῦς ὑγιὴς ἐν σώματι ὑγιεῖ / nous hygiēs en sōmati hygiei)”, liên kết sự xuất sắc về đạo đức và thể chất qua giáo dục và thể dục. Hume lặp lại truyền thống này, nhưng chuyển trọng tâm: ông coi sự tương đồng giữa vẻ đẹp thể chất và tinh thần không phải là bằng chứng về sự hài hòa đạo đức, mà là bằng chứng cho thấy cảm xúc kính trọng của chúng ta xuất phát từ những cảm xúc tương tự đối với cả hai loại trật tự và tỷ lệ này.

[10] Trong “lý thuyết đang nói/bàn”, Hume nhắc đến về quan điểm đạo đức dựa trên tình cảm của ông về sự tôn kính và đức hạnh, trong đó sự tán thành hay khinh miệt của chúng ta xuất phát từ tính hữu ích hoặc dễ chịu được nhận thấy của những phẩm chất của một người. Trong nội dung này: (a) Sự bất lực sinh lý bị khinh miệt vì nó khiến một người không thể thực hiện chức năng được xã hội coi trọng – hoạt động tình dục và sinh sản – vốn được coi là một lạc thú và lợi ích lớn cho bản thân và người khác. (b) Sự vô sinh ở phụ nữ ít bị chỉ trích hơn vì, mặc dù nó cũng hạn chế tính hữu dụng, nhưng hậu quả xã hội và thực tiễn ít nghiêm trọng hơn. Vì vậy, “lý thuyết hiện tại” giải thích những phán xét đạo đức và xã hội không phải bằng những quy tắc trừu tượng, nhưng bằng những cảm xúc mà chúng ta tự nhiên cảm thấy đối với tính hữu dụng và tác động của năng lực của con người đối với bản thân và người khác.

[11] rent-rolls: Bảng kê tiền thuê đất là danh sách hoặc hồ sơ ghi lại số tiền thuê mà chủ đất nhận được từ người thuê đất của họ.