(These are the
days when Birds come back)
Emily Dickinson
Đây Là Ngày Những
Con Chim Về Lại –
Rất ít – một
hay hai con –
Để ngoái nhìn
quá khứ.
Đây là ngày bầu
trời như lại tiếp tục
Màu cũ trước –
lừa dối của tháng Sáu
Một ảo ảnh
xanh lam và vàng ấm.
Ôi giả tạo
không thể lừa được Ong –
Suýt nữa
tôi tin bầu
trời
Vẻ thật đến nao
lòng người.
Đến khi hạt giống
thành hàng đã rải làm chứng,
Và qua làn không
khí nhẹ nhàng đã đổi,
Cuốn nhanh một
lá thu e ấp rơi.
Ôi nghi lễ
thiêng liêng của những ngày hè,
Ôi giao cảm cuối
cùng trong ánh vàng mờ ảo –
Xin để một trẻ
thơ được dự,
Để nhập cùng những
biểu tượng linh thiêng
Để nhận lấy phước
lành mùa thu ban tặng,
Và dấu hiệu ân
sủng của nó.
These are the
days when Birds come back –
A very few – a
Bird or two –
To take a
backward look.
These are the
days when skies resume
The old – old
sophistries of June –
A blue and gold
mistake.
Oh fraud that
cannot cheat the Bee –
Almost thy plausibility
Induces my
belief,
Till ranks of
seeds their witness bear –
And softly
through the altered air
Hurries a timid
leaf.
Oh sacrament of
summer days,
Oh last communion
in the haze –
Permit a child to
join,
Thy sacred
emblems to partake –
Thy consecrated
bread to take
And sacramental
sign.
Emily Elizabeth Dickinson (1830 –1886)
Lê Dọn Bàn đọc – tạm dịch,
bản nháp thứ nhất
(Sep/2025)
Đây Là Ngày Những
Con Chim Về Lại [1]
1.
(Vào thời điểm này trong năm, một vài con chim bay trở lại, mặc dù hầu hết đã di cư về phương Nam.
Không nhiều, chỉ xuất hiện một hai con, gần như thể để ngoái nhìn
lại thời gian vừa qua.
Bầu trời dường như khoác lên mình những màu quen
thuộc của tháng Sáu – sắc
xanh biếc và vàng rực của trời mùa trước – nhưng
đây chỉ là một ảo
ảnh, bởi mùa hè thực đã qua rồi.
Giả tạo này không thể đánh lừa được bầy ong, vì chúng biết mùa đã đổi, thu đang đến. Tuy nhiên, bầu trời trông giống
mùa hè đến nỗi gần như thuyết phục được tôi.
Nhưng những hạt giống nằm thành hàng trong luống, như làm chứng cho sự
đổi mùa.
Giữa không khí đã đổi lạnh, một chiếc lá rụt rè, mỏng manh được gió nhẹ nhàng cuốn trôi.
Những ngày ấm áp này như một nghi lễ thiêng liêng, một “hiệp thông” cuối cùng của mùa hè, và người viết xin được tham dự, với tấm lòng trẻ thơ tinh khiết. Những con chim trở về, những hạt giống, lá rụng – như những biểu tượng thiêng liêng, ẩn chứa huyền nhiệm ghi dấu thời gian đang qua. Hè đi thu đến thành thời khắc của giao cảm giữa tác giả và thiên nhiên, tất cả như mời gọi chăm chú cảm nhận để trân trọng cái đẹp mong manh của đất trời.)
2.
“Đây
Là Ngày Những Con Chim Về Lại” của Emily Dickinson mở đầu như một bản phác họa thầm lặng về mùa thu, nhưng
rồi mở ra thành một chiêm nghiệm về thời gian, sự hữu hạn và sự thiêng liêng của
thiên nhiên. Bài thơ bắt đầu với hình ảnh đàn chim di cư, “rất ít, một hoặc hai
con”, sự trở về của những con chim đơn lẻ như
một nhắc nhở tế nhị về những mong
manh qua nhanh và cần được cảm nhận với tế nhị, đừng để mất đi trong
vô tình. Về lại của chúng như như nhìn lại quá khứ, đánh thức ký ức – mùa trước đã qua hết, những nồng ấm của mùa cũ không còn nữa, có chăng chỉ
trong hồi tưởng.
Bầu trời trên cao “mặc những sắc màu dịu
dàng của tháng Sáu”, một ảo ảnh về mùa hè còn vương vấn, gần như lừa được giác quan. Nhưng
Dickinson đã nhẹ nhàng khua tan ảo ảnh ấy. Những chú
ong – hình ảnh của năng lượng thiêng liêng trong tác phẩm của nàng – không còn bay lượn nhẩn nha, nhưng đang gấp gáp thu góp những
gì xót lại trước đi, những hạt giống nằm rải
rác mang lời hứa thầm lặng về tái
sinh, và một chiếc lá đơn độc, chao động rơi, như biểu tượng mỏng
manh của chính cái chết. Những chi tiết ấy không đơn
thuần là những quan sát về mùa thu; chúng là những biểu
tượng cho sự phù du của cuộc đời và hành trình của hồn người qua
những biến đổi liên tục. Cái chết và tái sinh gói gọn trong một nhịp điệu
tuần hoàn, và con người, giống như hạt giống hay chiếc
lá, đều trong một chu kỳ vĩnh hằng của mất đi và
trở lại.
Khổ thơ cuối cùng làm sâu xa thêm sự cộng
hưởng của đất trời và con người. Tác giả đón nhận những dấu hiệu nhỏ bé này như những “biểu tượng thiêng
liêng”, biến cánh đồng và bầu trời thành một không gian linh thiêng. Sự “hiệp thông” với mùa đi, hay (giao cảm với
Trời Đất) không diễn ra như vẫn thấy trong thánh đường (Kitô) nhưng trong một khung cảnh sống
động: ong như người hầu lễ, chim như sứ giả tinh thần, hạt giống như bình chứa mầm phục sinh. Chiếc
lá trôi rụng trở thành miếng bánh thánh (quà thiêng) của sự chết và sự phục sinh, trong một
buổi lễ được chính sự giao mùa cử hành trong tĩnh
lặng. [2]
Đọc bài thơ là hòa mình vào nghi lễ tĩnh lặng
đó. Dickinson mời chúng ta vào trong một cảm thức đầy tôn kính, để nếm vị ngọt thoáng qua của hiện tại, như một huyền nhiệm. Dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ, một buổi chiều tháng Chín bình thường trở thành hình ảnh của vĩnh cửu lấp
lánh giữa phù du – một bài học rằng thiêng liêng của sự sống không nằm ngoài thế giới này, nhưng dệt trong từng chiếc lá đang rơi và những tia nắng đang tàn, ngoài kia, quanh chúng ta.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Thu/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Bài thơ These
are the days when Birds come back được viết vào những năm 1860–1870 và lần đầu
tiên xuất hiện sau khi bà qua đời, trong The Poems of Emily Dickinson,
do Thomas H. Johnson biên tập (1955).
[2] Những biểu tượng của Dickinson: Chim thường gợi lên tinh thần hoặc những
khoảnh khắc thoáng qua; ong tượng trưng cho sự chú ý và trí tuệ của thiên
nhiên; hạt giống tượng trưng cho sự đổi mới và sự liên tục của cuộc sống;
lá gợi lên sự phù du và cái chết; những vật thể bình thường– hoa, quả hoặc lá
trôi– có thể trở thành biểu tượng thiêng liêng, khơi gợi trầm tư tôn kính những cái đẹp qua nhanh trong đời sống.