Tuesday, November 11, 2025

Hume – Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức (11)

Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức

(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)

 

David Hume

 

( ← ... tiếp theo )

 

 

 

MỤC IX.

Kết Luận.

 

PHẦN I.

 

M 9. 1, SBN 268-9

Quả thực có vẻ khá ngạc nhiên rằng, trong một thời đại đã tiến bộ như vậy, vẫn còn có người cảm thấy cần phải chứng minh – bằng những lý luận công phu – rằng GIÁ TRỊ CÁ NHÂN hoàn toàn nằm ở việc sở hữu những phẩm chất tinh thần có ích hay dễ chịu cho chính bản thân người đó hay cho người khác. Người ta có thể mong đợi rằng nguyên lý này đã phải xuất hiện ngay cả với những nhà nghiên cứu sơ khai, thiếu kinh nghiệm nhất về đạo đức học, và đã được chấp nhận ngay từ bằng chứng hiển nhiên của nó, với không bất kỳ tranh chấp hay biện luận nào. Bất cứ gì có giá trị, dù thuộc loại nào, đều tự nhiên được xếp vào một trong hai hạng mục: hữu ích (useful) hay dễ chịu (agreeable), tức là hữu dụng (the utile) hay thú vị (the dulce),, đến mức khó có thể tưởng tượng tại sao chúng ta lại phải tìm kiếm xa hơn, hay coi vấn đề này như một đề tài cần nghiên cứu hay điều tra tỉ mỉ. Và vì tất cả những gì có ích hay dễ chịu đều phải mang những phẩm chất đó đối với chính bản thân người đó hay đối với người khác, nên việc mô tả hay định nghĩa đầy đủ về giá trị cá nhân dường như được thể hiện một cách tự nhiên như bóng đổ dưới nắng, hay như hình ảnh phản chiếu trên mặt nước phẳng lặng. Miễn là mặt đất đón bóng không gồ ghề lồi lõm, và mặt nước soi bóng không gợn sóng hay lay động, thì ngay lập tức một hình ảnh chính xác, trung thực sẽ hiện lên – chẳng cần chút dụng công hay cố ý nào.Và có vẻ như một giả định hợp lý rằng những hệ thống và giả thuyết đã làm sai lệch sự hiểu biết tự nhiên của chúng ta; bởi một lý thuyết đơn giản và hiển nhiên như vậy lại có thể lẩn tránh mãi khỏi những khảo sát công phu nhất trong thời gian dài.

 

M 9. 2, SBN 269-70

Nhưng dù cho triết học có thể đã thành công hay thất bại trong vấn đề này thế nào đi nữa, trong đời sống thường ngày, những nguyên lý này vẫn ngầm được duy trì. Khi chúng ta khen ngợi hay chỉ trích, ca tụng hay phê phán hành động và ứng xử của con người, chúng ta không bao giờ dựa vào bất kỳ đề tài nào khác ngoài những nguyên lý này. Nếu quan sát con người trong mọi giao tiếp công việc hay giải trí, trong mọi trò chuyện và đối thoại, chúng ta sẽ không tìm thấy ai, ngoại trừ những triết gia và học giả trong những trường phái lúng túng hay không chắc chắn về đề tài này.

Thí dụ, còn gì tự nhiên hơn trò chuyện sau đây? – Chắc hẳn ông rất sung sướng, chúng ta có thể giả định một người nói nói với một người kia như vậy, rằng ông đã gả con gái cho Cleanthes. Anh ấy là một người trọng danh dự và nhân hậu. Bất cứ ai giao tiếp với anh ấy đều chắc chắn sẽ được đối xử công bằngtử tế [53]. – Tôi cũng xin chúc mừng ông, một người khác nói, về những triển vọng đầy hứa hẹn của người con rể này; người mà sự siêng năng nghiên cứu luật pháp, sự hiểu biết nhanh chóng và kiến ​​thức sớm về cả con người và công việc, đều báo trước những vinh dự và và sự thăng tiến lớn lao nhất [54]. – Ông làm tôi ngạc nhiên đấy, người thứ ba trả lời, khi ông nói về Cleanthes như một con người công việc và thực hành. Tôi đã gặp anh ấy gần đây trong một nhóm bạn vui vẻ nhất, và anh ấy là chính linh hồn của trò chuyện của chúng tôi: Rất nhiều thông minh với cách cư xử tốt đẹp; rất nhiều hào hiệp nhưng không giả tạo; rất nhiều kiến ​​thức uyên bác được truyền đạt rất tao nhã, tôi chưa bao giờ thấy ở bất kỳ ai trước đây [55]. – Ông sẽ còn khâm phục hơn anh ấy nữa, người thứ tư nói, nếu quen biết thân tình hơn. Sự vui vẻ mà ông có thể nhận thấy ở anh ấy, không phải là một tia sáng thoáng qua do đám đông khơi lên: Nó chạy qua toàn bộ cuộc đời anh ấy, và giữ cho vẻ mặt anh luôn rạng rỡ bình thản, tâm hồn anh tĩnh lặng. Anh ấy đã trải qua những thử thách khắc nghiệt, cả bất hạnh lẫn hiểm nguy; nhưng nhờ sự cao thượng của tâm hồn, anh vẫn vượt lên trên tất cả. [56]. Thưa quý ông, tôi kêu lên, bức tranh mà quí vị vừa vẽ về Cleanthes là một đức con người hạnh trọn vẹn và hoàn hảo. [1] Mỗi vị đã góp một nét vẽ vào chân dung của anh ấy, và cùng nhau, dù không cố ý, quí đã vô tình vượt xa tất cả những nhân vật mà Gracián hay Castiglione đã từng vẽ nên. Một triết gia có thể chọn nhân cách này như một khuôn mẫu của đức hạnh hoàn hảo. [2]

 

M 9. 3, SBN 270

Và cũng như mọi phẩm tính nào có ích hay dễ chịu với bản thân hay người khác, trong đời sống thường ngày, đều được coi là một phần của giá trị cá nhân; thì cũng sẽ không có phẩm tính nào khác được chấp nhận nếu con người đánh giá mọi việc bằng lý trí tự nhiên, không thành kiến, không bị ảnh hưởng bởi những lời giải thích sai lệch của mê tín và tôn giáo sai lầm. Thí dụ, hãy lấy việc sống độc thân, nhịn ăn, hành xác hối lỗi, khổ hạnh, tự chối bỏ bản thân đến cùng cực, khiêm nhường đến mức hèn mọn, im lặng, cô độc, cùng cả đoàn lũ dài những “đức hạnh tu hành” ảm đạm” kiểu nhà tu. Vì sao người tỉnh táo ở đâu cũng lắc đầu ngao ngán? Rất đơn giản: chúng chẳng phục vụ mục đích thực tế nào cả. Chúng không giúp ai thăng tiến trên đời, không làm người ta trở thành công dân hay bạn bè tốt hơn, không khiến trò chuyện thêm phần thú vị, và chắc chắn không tăng nổi chút hạnh phúc cá nhân nào. Trái lại, chúng tích cực phá hoại tất cả những điều đáng mong muốn ấy: làm trí óc tê liệt, trái tim chai cứng, trí tưởng tượng mù mịt, và biến tính tình thành chua chát. Do đó, chúng ta chuyển những phẩm tính đó sang cột đối diện là đúng, và xếp chúng vào danh mục những thói hư tật xấu. Không một huyền hay mê tín nào, dù mạnh mẽ đến đâu, có thể hoàn toàn làm hỏng cảm xúc tự nhiên của những người sáng suốt. Một kẻ cuồng tín u ám, nửa điên nửa tỉnh có thể, sau khi chết, được “phong thánh” và được đưa vào “lịch các thánh” của hội Nhà thờ, nhưng khi còn sống, người này hiếm khi được chào đón vào những quan hệ bình thường hay bạn bè thân thiết – ngoại trừ những người cũng mê muội và buồn bã u ám như chính người này mà thôi. [3]

 

M 9. 4, SBN 270-1

Có vẻ như là một may mắn trong lý thuyết hiện tại, là nó không đi vào trong tranh luận tầm thường về mức độ của lòng từ thiện hay tình cảm vị kỷ, cái nào chiếm ưu thế trong bản chất con người; một tranh luận khó có thể đi đến hồi kết, vì hai lý do: thứ nhất, những người đã chọn phe thì khó lòng bị thuyết phục, và thứ hai, bởi vì những hiện tượng có thể được đưa ra ở cả hai phía, thì phân tán, không chắc chắn, và chịu quá nhiều cách diễn giải, đến mức hầu như không thể so sánh chúng một cách chính xác, hay rút ra từ chúng bất kỳ suy luận hay kết luận xác nào. Đối với mục đích hiện tại của chúng ta, chỉ cần thừa nhận điều này là đủ, chắc chắn không ai, nếu không đến mức vô lý nhất, lại dám phủ nhận: có một chút từ thiện nào đó, dù nhỏ bé, được rót vào lòng chúng ta; một tia lửa tình thân hữu nào đó dành cho loài người; một chút gì hiền hòa của chim bồ câu – sự dịu dàng, tử tế, hay thiện chí – nào đó, được nhào nặn vào cơ thể chúng ta, cùng với những yếu tố của sói đá và rắn độc. Hãy để những tình cảm hào hiệp này được coi là yếu ớt; hãy để chúng thậm chí không đủ để lay động dù chỉ một bàn tay hay một ngón tay trên cơ thể chúng ta; Chúng vẫn phải định hướng những quyết định của tâm lý chúng ta, và khi mọi sự vật việc khác đều ngang bằng, sẽ tạo ra một sự ưu tiên bình tĩnh cho những gì có lợi và có ích cho loài người, hơn là những gì có hại và nguy hiểm. Do đó, một sự phân biệt về đạo đức ngay lập tức phát sinh; một cảm giác tổng quát về khiển trách và tán thành; một khuynh hướng, dù yếu ớt, với những đối tượng của bên này, và một ác cảm tương ứng với những đối tượng của bên kia. Những nhà lý luận, những người hết lòng duy trì tình cảm vị kỷ ưu thắng của loài người, cũng sẽ không hề cảm thấy bị xúc phạm khi nghe về những tình cảm yếu ớt của đức hạnh đã cấy trồng vào vào bản chất chúng ta. Ngược lại, những người lý luận này thường háo hức bảo vệ quan điểm này cũng như quan điểm kia; và chính tinh thần châm biếm của họ (vì nó hiện ra như mỉa mai đúng hơn là suy đồi đạo đức), đã tự nhiên tạo ra cả hai quan điểm, trên thực tế, chúng có liên hệ chặt chẽ và gần như không thể tách rời với nhau.

 

M 9. 5, SBN 271-2

Tham tiền, tham quyền, tham hư vinh, [4] và tất cả những tình cảm tầm thường, mặc dù dù không đúng chút nào, được gộp chung dưới cái tên “tình cảm vị kỷ”, ở đây đều bị loại trừ khỏi lý thuyết của chúng ta về nguồn gốc của đạo đức, không phải vì chúng quá yếu, nhưng vì chúng nhắm sai mục đích hoàn toàn. Khái niệm đạo đức hàm chứa một tình cảm cho toàn thể loài người, một tình cảm khiến khiến mọi người, hay hầu hết mọi người, cùng tán thành một đối tượng, cùng đưa ra một đánh giá hay phán quyết giống nhau về nó. Nó cũng hàm ý một tình cảm phổ quát và toàn diện đến mức mở rộng đến toàn thể loài người, và khiến hành động và hành vi, ngay cả của những người xa lạ nhất, trở thành đối tượng được hoan nghênh hay chỉ trích, tùy thuộc vào việc họ đồng tình hay phản với quy luật đúng đắn đã được thiết lập. Hai đặc tính cần có này chỉ thuộc về tình cảm của loài người được chúng ta đang nhấn mạnh ở đây mà thôi. Những tình cảm khác tuy cũng khơi dậy trong lòng mỗi người những cảm xúc mãnh liệt của ham muốn và ghét bỏ, yêu mến và thù hận, nhưng chúng không được cảm nhận một cách tổng quát đến mức ấy, cũng không đủ bao quát để có thể làm nền tảng cho bất kỳ hệ thống phổ quát nào và lý thuyết đã được được thiết lập nào về sự khiển trách hay tán thưởng chấp thuận.

 

M 9. 6, SBN 272-3

Khi một người gọi một ai đó là kẻ thù, kình địch, đối kháng, hay đối thủ của mình, chúng ta hiểu rằng người này đang nói vì lợi ích cá nhân – bộc lộ cảm xúc xuất phát từ những hoàn cảnh cụ thể và tình trạng cá nhân. Nhưng khi người này gọi ai đó là xấu xa, đồi bại, hay sa đoạ người này đang nói một ngôn ngữ khác – một ngôn ngữ khơi gợi ý thức đạo đức chung. Khi làm như vậy, người này mong đợi mọi người lắng nghe đều đồng tình với phán đoán của mình. Do đó, ở đây, người này phải rời bỏ tình thế riêng tư và đặc thù, và phải chọn một quan điểm có chung giữa người này với những người khác. Người này phải khơi gợi một nguyên lý phổ quát nào đó trong bản chất con người, và chạm vào một sợi dây đồng cảm vốn tất cả loài người đều có thể cộng hưởng. Do đó, nếu người này muốn nói rằng người kia sở hữu những phẩm tính có có khuynh hướng gây hại cho xã hội, thì thì người này đã chọn quan điểm chung này, và đã chạm vào nguyên lý nhân đạo – một nguyên lý mà mỗi người, ở một mức độ nào đó, đều đồng tình. Chừng nào trái tim con người vẫn được cấu thành từ những yếu tố như ngày nay, nó sẽ không bao giờ hoàn toàn thờ ơ với lợi ích chung, cũng không bao giờ thờ ơ với phẩm tính và hành vi đạo đức của người khác. Và mặc dù tình cảm nhân đạo này có thể không mạnh mẽ như lòng tự cao hay tham vọng, nhưng nó được chia sẻ bởi tất cả mọi người, và do đó, chỉ riêng nó mới có thể đóng vai trò là nền tảng thực sự của đạo đức, hay của bất kỳ hệ thống tổng quát nào về sự khiển trách hay khen ngợi. Tham vọng của người này không phải là của người khác; điều gì kích thích hay thỏa mãn người này chưa chắc đã làm người kia rung động. Nhưng tình nhân đạo trong mỗi người là như nhau, và cùng một đối tượng khơi dậy tình cảm này trong mỗi con người.

 

M 9. 7, SBN 273

Nhưng những tình cảm phát sinh từ tình nhân đạo không chỉ giống nhau trong tất cả con người và tạo ra sự tán thành hay chỉ trích như nhau, nhưng chúng còn bao trùm tất cả mọi người; và không có bất kỳ ai mà hành vi hay tính cách của họ, qua những tình cảm này, lại không trở thành đối tượng để mỗi người khác đánh giá hay phê phán. Ngược lại, những tình cảm khác, thường được gọi là tình cảm vị kỷ, không chỉ tạo ra những tình cảm khác nhau ở mỗi cá nhân, tùy theo hoàn cảnh cụ thể của người đó; nhưng còn nhìn phần lớn loài người với sự thờ ơ và vô tâm tối đa. Bất kỳ ai coi trọng và đánh giá cao tôi sẽ làm thỏa mãn lòng vị kỷ của tôi; ai thể hiện sự khinh miệt sẽ làm tôi tổn thương và bất mãn. Nhưng vì tên tuổi của tôi chỉ được biết đến bởi một phần nhỏ loài người, nên rất ít người nằm trong phạm vi ảnh hưởng của tình cảm này, hay khơi dậy – vì nó – sự yêu mến hay chán ghét của tôi. Nhưng nếu bạn mô tả một hành vi bạo ngược, ngạo mạn, hay man rợ ở bất kỳ quốc gia nào hay bất kỳ thời đại nào trên thế giới, tôi sẽ nhanh chóng nhìn thấy khuynh hướng tai hại của hành vi đó, và cảm thấy ghê tởm và bất mãn, khó chịu đối với nó. Không có nhân vật nào xa lạ đến mức, dưới góc nhìn này, trở nên hoàn toàn vô cảm đối với tôi. Điều gì có lợi cho xã hội hay cho chính bản thân người đó vẫn phải được ưa chuộng. Và mỗi phẩm chất hay hành động của mỗi con người, qua cách này, đều phải được xếp vào một loại hay danh mục nào đó, thể hiện sự chỉ trích hay tán dương chung.

 

M 9. 8, SBN 273-4

Vậy thì chúng ta còn có thể đòi hỏi gì hơn nữa để phân biệt những tình cảm vốn tùy thuộc vào tình nhân đạo, với những tình cảm gắn liền với bất kỳ đam mê nào khác, hay để thuyết phục chúng ta rằng những tình cảm trước mới là nguồn gốc của đạo đức, chứ không phải những tình cảm sau? Bất kỳ hành vi nào giành được sự tán thành của tôi bằng cách chạm đến tình nhân đạo của tôi, cũng sẽ nhận được sự tán dương của toàn thể loài người, bởi vì nó tác động đến cùng nguyên lý trong họ. Nhưng những gì phục vụ lòng hám lợi hay tham vọng của tôi chỉ làm hài lòng những tình cảm này trong mình tôi mà thôi, và không ảnh hưởng đến lòng hám lợi hay tham vọng của loài người còn lại. Không có hành vi nào của bất kỳ người nào, miễn là nó có khuynh hướng mang lại lợi ích, mà không làm hài lòng tình nhân đạo của tôi, dù người đó có xa lạ đến đâu. Ngược lại, với lòng hám lợi hay tham vọng của tôi thì một người ở quá xa, không thể cản trở cũng chẳng thể phục vụ chúng, sẽ hoàn toàn bị những tình cảm ấy coi là vô can, chẳng đáng bận tâm. Do đó, sự khác biệt giữa những loại tình cảm này quá lớn và rõ ràng, nên ngôn ngữ sớm muộn cũng phải uốn mình theo đó: nó buộc phải tạo ra một tập hợp những từ ngữ đặc biệt, để diễn đạt những tình cảm phổ quát về sự chỉ trích hay chấp thuận, xuất phát từ tình nhân đạo, hay từ quan điểm về sự hữu ích chung và những điều trái ngược với nó. ĐỨC HẠNH và THÓI HƯ TẬT XẤU từ đó được nhận biết; ĐẠO ĐỨC được thừa nhận. Những khái niệm tổng quát về hành vi và cách ứng xử của con người được hình thành: Người ta kỳ vọng con người phải hành động theo những chuẩn mực ấy trong những hoàn cảnh nhất định. Hành động này được xác định là phù hợp với quy luật trừu tượng của chúng ta; hành động kia thì ngược lại. Và qua những nguyên lý phổ quát như vậy, những cảm xúc đặc thù của tình cảm vị kỷ thường bị kiểm soát và giới hạn [57].

 

M 9. 9, SBN 275-6

Từ những thí dụ về bất ổn công chúng, bạo loạn, phe phái, hoảng loạn và tất cả những tình cảm được đông đảo quần chúng chia sẻ, chúng ta có thể nhận thấy ảnh hưởng của xã hội trong việc khơi dậy và duy trì bất kỳ cảm xúc nào Những rối loạn khó kiềm chế nhất cũng có thể bùng phát bằng cách này, thường chỉ từ những nguyên nhân nhỏ nhặt và tầm thường nhất. Solon không phải là một nhà lập pháp quá tàn nhẫn, dù có lẽ ông là một nhà lập pháp bất công khi trừng phạt những người trung lập trong những nội chiến. Và tôi tin rằng, rất ít người, trong những trường hợp như vậy, phải chịu hình phạt, nếu tình cảm và lời nói của họ đủ để minh oan cho họ. Không một tình cảm vị kỷ nào, và hiếm có triết lý nào, đủ sức mạnh để duy trì một thái độ hoàn toàn lạnh lùng và thờ ơ; và người nào không bùng cháy trong ngọn lửa chung của cộng đồng, thì người đó hay không phải là con người, hay siêu phàm hơn con người. Vậy thì có gì ngạc nhiên khi những tình cảm đạo đức lại có ảnh hưởng lớn như vậy trong đời sống; mặc dù xuất phát từ những nguyên lý, thoạt nhìn có vẻ hơi nhỏ bé và mong manh? Nhưng những nguyên lý này, chúng ta phải lưu ý, mang tính xã hội và phổ quát: Theo một cách nào đó, chúng hình thành nên phe phái của loài người chống lại thói hư tật xấu hay sự hỗn loạn, kẻ thù chung của xã hội. Và vì lòng nhân ái dành cho những người khác được lan tỏa, ít nhiều, đến tất cả mọi người, và giống nhau ở tất cả mọi người, nên nó xuất hiện thường xuyên hơn trong lời nói, được xã hội và trò chuyện trân trọng, và những chỉ trích hay tán thưởng, do đó, được đánh thức, thay vì bị bỏ mặc trong trạng thái ngủ quên như khi sống cô lập hay trong môi trường nguyên thủy. Những tình cảm khác dù có thể mạnh mẽ hơn theo bản năng ban đầu, nhưng vì mang tính vị kỷ và chỉ giới hạn trong cá nhân, thường bị sức mạnh của nó kiềm chế, và phải nhường sự thống trị trong những buồng ngực chúng ta cho những nguyên lý nhân ái, rộng lượng và cộng đồng hơn. [5]

 

M 9. 10, SBN 276

Một nguồn khác trong cơ cấu tâm lý húng ta, đem lại sức mạnh đáng kể cho tình cảm đạo đức, chính là lòng ham danh vọng. Nó ngự trị với quyền uy gần như không gì cưỡng nổi trong tất cả những tâm hồn hào hiệp, và thường là mục tiêu lớn lao cho mọi kế hoạch và dự định của họ. Trong nỗ lực không ngừng để có được danh tiếng tốt, một cái tên được kính trọng, hay một nhân cách xuất chúng, chúng ta thường xuyên xem xét lại hành động của chính mình và xem xét chúng xuất hiện như thế nào đối với những người quan sát chúng ta. Thói quen thường xuyên tự vấn bản thân, như thể, trong sự phản chiếu, duy trì mọi cảm thức về đúng-sai luôn sống động, và khơi dậy, trong những bản tính cao quý, một sự tôn kính nhất định với bản thân cũng như người khác; đó là người bảo vệ chắc chắn nhất cho mọi đức hạnh. Ở những cá nhân như vậy, những tiện nghi và thú vui mang tính bản năng dần dần giảm đi giá trị của chúng; trong khi đó, mọi cái đẹp nội tâm và đức hạnh đạo đức đều được nỗ lực học hỏi, và trí tuệ được hoàn thiện với mọi hoàn hảo, vốn có thể tô điểm và làm rạng rỡ một sinh vật có lý trí.

 

M 9. 11, SBN 276

Đây chính là đạo đức hoàn thiện nhất vốn chúng ta biết đến: Ở đây thể hiện sức mạnh của nhiều sự đồng cảm. Tình cảm đạo đức của chúng ta chủ yếu cũng là một loại cảm xúc như vậy: Và sự quan tâm của chúng ta đến nhân cách của người khác dường như chỉ phát sinh từ mong muốn duy trì nhân cách của chính mình; và để đạt được mục đích này, chúng ta thấy cần phải củng cố phán đoán lung lay của mình bằng sự tán thành tương ứng từ loài người.

 

M 9. 12, SBN 276-8

Nhưng để có thể giải quyết vấn đề và loại bỏ, nếu có thể, mọi khó khăn, hãy thừa nhận rằng tất cả những lập luận này là sai lầm. Hãy thừa nhận rằng, khi chúng ta giải thích vui sướng xuất phát từ quan điểm về hữu ích thành tình cảm nhân đạo và sự đồng cảm, chúng ta đã chấp nhận một giả thuyết sai lầm. Hãy thừa nhận rằng cần phải tìm một giải thích khác cho sự tán dương dành cho những đối tượng, dù vô tri, hữu giác hay lý trí, nếu chúng có khuynh hướng thúc đẩy phúc lợi và lợi ích của loài người. Dù khó có thể hình dung rằng một đối tượng được chấp nhận chỉ vì nó hướng đến một mục đích nhất định, trong khi bản thân mục đích đó lại hoàn toàn không quan trọng đối với chúng ta; chúng ta hãy chấp nhận sự phi lý này và xem xét những hậu quả tiếp theo. Phân tích hay định nghĩa trước đó về giá trị đạo đức cá nhân vẫn phải giữ nguyên bằng chứng giá trị và thẩm quyền thuyết phục của nó. Vẫn phải nhìn nhận rằng mọi phẩm chất của tâm trí, có ích hay dễ chịu cho bản thân hay người khác, đều tạo một vui thích cho người quan sát, giành được sự quí trọng của người đó, và xứng đáng được xếp vào danh xưng danh dự là đức hạnh hay giá trị. Chẳng phải công lý, sự trung thực, danh dự, sự chân thật, lòng trung thành và tiết hạnh chỉ được coi trọng vì chúng có khuynh hướng thúc đẩy hữu ích xã hội hay sao? Chẳng phải khuynh hướng đó không thể tách rời khỏi tình nhân đạo, lòng từ thiện, sự khoan dung, lòng hào hiệp, lòng biết ơn, sự điều độ, sự dịu dàng, tình thân hữu và tất cả những đức hạnh xã hội khác hay sao? Liệu có thể hoài nghi rằng sự cần cù, sự thận trọng, tính tiết kiệm, sự bí mật, sự ngăn nắp, sự kiên trì, sự suy tính trước, sự phán đoán và toàn bộ những đức hạnh và thành tựu này, vốn nhiều trang sách sẽ không thể liệt kê hết được; liệu có thể hoài nghi rằng, tôi nói rằng, khuynh hướng của những phẩm tính này nhằm thúc đẩy hữu ích và hạnh phúc của người sở hữu chúng chính là nền tảng duy nhất cho giá trị của chúng? Ai có thể phủ nhận rằng một tâm hồn luôn giữ được bình thản vui vẻ bền vững, một phẩm giá cao quý và tinh thần bất khuất, một tình cảm yêu thương và thiện chí với mọi người xung; không chỉ mang lại nhiều hạn phúc hơn trong chính nó, mà còn là một cảnh tượng khích lệ và đầy hứng khởi hơn so với một tâm hồn chìm trong u sầu, bị lo âu dày vò, bốc lửa vì giận dữ, hay chìm đắm trong sự hèn hạ và thoái hóa cùng cực nhất? Còn những phẩm tính ngay lập tức làm hài lòng người khác, chúng tự nói lên giá trị của chúng. Và thật không may mắn, người nào chưa bao giờ cảm nhận được sức hấp dẫn của một trí tuệ hóm hỉnh hay sự hòa nhã lưu loát, của một sự khiêm tốn tinh tế hay một thái độ và cử chỉ lịch sự, tao nhã, thì quả thực người đó phải rất bất hạnh – hay trong tính khí, hay trong hoàn cảnh và ứng xử giao tiếp của mình.

 

M 9. 13, SBN 278

Tôi hoàn toàn nhận thức được rằng không có gì phi triết học hơn việc khẳng định chắc chắn hay giáo điều về bất kỳ đề tài nào; và ngay cả khi trì sự hoài nghi thái quá có thể được duy trì, nó cũng không phá hoại sự suy luận và tìm hiểu chính đáng hơn là thái độ ấy.Tôi tin rằng, nơi nào con người tự tin và ngạo mạn nhất, thì họ thường mắc sai lầm lớn nhất, và ở đó họ buông thả cho tình cảm, vốn không có sự cân nhắc và dè dặt cần thiết, vốn là thứ duy nhất có thể bảo vệ họ khỏi những điều phi lý thô thiển nhất.Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận rằng cách liệt kê trên đã làm sáng tỏ vấn đề một cách mạnh mẽ đến mức, hiện tại, tôi không thể chắc chắn hơn về bất kỳ chân lý nào mà tôi học được từ lý lẽ và tranh luận, hơn là việc giá trị đạo đức cá nhân hoàn toàn nằm ở tính hữu ích hay sự dễ chịu của những phẩm chất đối với chính người sở hữu chúng, hay đối với những người có quan hệ giao tiếp với người ấy. Nhưng khi tôi suy ngẫm rằng, mặc dù kích thước và hình dạng của Trái Đất đã được đo đạc và phác họa, dù chuyển động của thủy triều đã được giải thích, hệ thống và chuyển động của những thiên thể đã được xác định và ngay cả cả khái niệm về vô hạn đã được kéo vào sự tính toán; nhưng con người vẫn còn tranh luận về nền tảng của những nghĩa vụ đạo đức của họ, Khi tôi suy ngẫm về điều này, tôi phải nói, tôi lại rơi vào sự ngờ vực và hoài nghi, và nghi ngờ rằng một giả thuyết hiển nhiên như vậy, nếu nó thực sự đúng, thì đã được toàn thể loài người chấp nhận với sự đồng thuận và tán thành tuyệt đối từ lâu rồi.

 

PHẦN II.

 

M 9. 14, SBN 278-9

Sau khi đã giải thích sự chấp thuận về đạo đức liên quan đến giá trị đạo đức hay đức hạnh, không còn gì khác ngoài việc ngắn gọn xem xét nghĩa vụ hữu ích của chúng ta với nó, và tìm hiểu xem liệu mỗi người, những người quan tâm đến hạnh phúc và phúc lợi của bản thân, có tìm thấy giá trị tốt nhất của người này trong việc thực hành mọi bổn phận đạo đức hay không. Nếu điều này có thể được xác định rõ ràng từ lý thuyết trên, chúng ta sẽ có sự hài lòng khi suy ngẫm rằng chúng ta đã đưa ra những nguyên lý, hy vọng rằng chúng không chỉ vượt qua được thử thách của lý luận và nghiên cứu, nhưng còn có thể góp phần vào cải thiện đời sống của con người và cải thiện đạo đức cũng như đức hạnh xã hội của họ. Và mặc dù đúng thực triết học của bất kỳ mệnh đề nào không hề tùy thuộc vào khuynh hướng thúc đẩy hữu ích xã hội của nó; nhưng một người vẫn thể hiện mình rất kém cỏi nếu đưa ra một lý thuyết – dù đúng đến đâu – nhưng phải nhìn nhận rằng nó dẫn đến những thực hành nguy hiểm và có hại. Tại sao chúng ta lại phải dò

dẫm vào những góc khuất của thiên nhiên, những nơi mà nếu bị xáo trộn, sẽ gieo rắc tai hại và hỗn loạn khắp nơi? Tại sao phải đào bệnh dịch lên từ chính hố đã chôn vùi nó? Sự khéo léo trong nghiên cứu của bạn có thể được thán phục, nhưng hệ thống của bạn sẽ bị ghét bỏ: Và ngay cả khi loài người không thể trực tiếp bác bỏ chúng, họ cũng sẽ đồng ý, ít nhất, giao phó chúng cho sự im lặng và lãng quên vĩnh viễn. Ngay cả những sự thật, nếu có hại cho xã hội, cũng sẽ bị lấn át bởi những dối trá, mặc dù sai lầm, nhưng lại mang lại lợi ích hay thúc đẩy phúc lợi cho người khác.

 

M 9. 15, SBN 279-80

Nhưng những sự thực triết học nào có thể mang lại lợi ích cho xã hội hơn những sự thực được trình bày ở đây, những sự thực mô tả đức hạnh với tất cả sự lôi cuốn chân thực và hấp dẫn nhất của nó, và khiến chúng ta tiếp cận nó với sự dễ dàng, thân thuộc và thiện cảm? Chiếc áo choàng ảm đạm vốn nhiều nhà gót học và một số triết gia đã phủ lên nó rơi xuống; và chỉ còn lại sự dịu dàng, nhân đạo, từ thiện, niềm nở; ngay cả, vào những khoảng thời gian thích hợp, còn có vui đùa, hớn hở và vui vẻ. Nó không nói về những khổ hạnh và những kỷ luật khắc nghiệt vô ích, về đau khổ và từ bỏ bản thân. Nó tuyên bố rằng mục đích duy nhất của nó là làm cho những người hâm mộ và toàn thể loài người, trong từng khoảnh khắc hiện hữu của họ, nếu có thể, vui vẻ và hạnh phúc; và nó cũng không bao giờ sẵn lòng từ bỏ bất kỳ vui sướng nào trừ khi hy vọng được đền đáp dồi dào trong một giai đoạn khác nào đó của cuộc đời họ. Khó khăn duy nhất nó đòi hỏi, là của sự suy luận cẩn thận và công bằng về những gì sẽ mang lại hạnh phúc lớn hơn. Và nếu bất kỳ kẻ giả danh nghiêm khắc nào đến gần nó, những thù địch của vui vẻ và lạc thú—nó hay từ chối chúng như những kẻ đạo đức giả và lừa dối; hay, nếu nó chấp nhận chúng vào đoàn tùy tùng của nó, chúng vẫn đứng giữa những gì ít được ưa chuộng nhất trong số những tùy tùng cỉa nó.

 

M 9. 16, SBN 280

Và quả thực, để bỏ hết những diễn đạt ẩn dụ, chúng ta từng có thể hy vọng gì khi muốn thu hút loài người vào một thực hành vốn chúng ta thú nhận là đầy khắc khổ và nghiêm ngặt? Hay lý thuyết đạo đức nào từng có thể phục vụ bất kỳ mục đích hữu ích nào, trừ khi nó có thể cho thấy, bằng một chi tiết cụ thể, rằng tất cả những nghĩa vụ vốn nó khuyến khích, đều cũng là lợi ích thực của mỗi cá nhân? Ưu điểm đặc biệt của hệ thống vừa giải thích là nó cung cấp những môi trường thích hợp cho mục đích đó.

 

M 9. 17, SBN 280

Thật chắc chắn là thừa thãi, không cần phải chứng minh rằng những đức tính ngay lập tức có ích hay dễ chịu cho người sở hữu chúng là đáng mong muốn từ góc độ lợi ích cá nhân. Thực vậy, những nhà đạo đức học có thể tránh cho mình mọi công sức vốn họ thường bỏ ra khi đưa ra những bổn phận này. Việc thu thập những lập luận để chứng minh rằng sự tiết độ là có lợi và việc sa đà vào lạc thú quá mức là có hại nhằm mục đích gì? Rõ ràng, những sự quá độ này được gọi là “thói hư tật xấu” chỉ vì chúng có hại; bởi vì, ví dụ, nếu việc dùng rượu mạnh không giới hạn không làm tổn hại đến sức khỏe, tinh thần hay thể chất hơn thở không khí hay uống nước lã, thì nó cũng không phải là một hành vi xấu xa hay đáng chê trách hơn một chút nào.

 

M 9. 18, SBN 280-1

Dường như cũng thừa thãi để chứng minh rằng những phẩm hạnh khiến người ta dễ gần – lịch thiệp, thông minh duyên dáng, đoan trang và tao nhã – thì đáng mong muốn hơn hẳn những phẩm hạnh trái ngược. Chỉ riêng lòng tự phụ ham danh, không cần cân nhắc thêm bất kỳ điều gì khác, đã đủ là động lực khiến chúng ta mong muốn có được những phẩm hạnh này. Không một người nào lại tự nguyện chịu kém cỏi ở điều này. Mọi thất bại của chúng ta ở đây đều xuất phát từ nền giáo dục kém, thiếu năng lực hoặc một tính cách ngoan cố và khó uốn nắn. Bạn có muốn được bạn bè khao khát giao du, ngưỡng mộ, tìm đến, thay vì bị ghét bỏ, khinh miệt, tránh xa không? Có ai lại cần đắn đo suy nghĩ gì nghiêm trang về vấn đề này không? Bởi không một niềm vui nào là thật sự trọn vẹn nếu thiếu sự liên hệ với bạn bè và xã hội; mà cũng không một xã hội nào có thể dễ chịu, thậm chí chịu đựng nổi, khi một người cảm thấy mình không được chào đón, và nhìn đâu cũng thấy những dấu hiệu chán ghét, xa lánh xung quanh.

 

M 9. 19, SBN 281

Nhưng tại sao, trong xã hội rộng lớn hơn của toàn thể loài người, mọi sự việc lại khác biệt so với những gì chúng ta thấy trong những nhóm giao lưu nhỏ và những tụ họp thân hữu cá nhân? Tại sao chúng ta lại nghi ngờ rằng những đức tính rộng lớn hơn của lòng nhân đạo, sự hào phóng và lòng nhân ái lại đáng mong muốn cho hạnh phúc và lợi ích của chính chúng ta hơn là những phẩm tính hẹp hòi hơn như sự dí dỏm và lịch sự? Liệu chúng ta có sợ rằng những tình cảm xã hội rộng lớn này sẽ cản trở lợi ích cá nhân nhiều hơn những hoạt động khác, và rằng chúng không thể thỏa mãn được nếu không có sự hy sinh quan trọng về danh dự hay lợi ích? Nếu vậy, chúng ta đã không hiểu đúng về bản chất của những tình cảm của con người, và để bản thân bị ảnh hưởng nhiều bởi những phân biệt trong từ ngữ hơn là bất kỳ sự khác biệt thực sự nào.

 

M 9. 20, SBN 281

Bất kể mâu thuẫn nào mà người ta thường cho là giữa cảm xúc hay khuynh hướng vị kỷ và xã hội, thực ra chúng không đối lập nhau hơn vị kỷ và tham vọng, vị kỷ và thù hận, hay vị kỷ và tự phụ tham danh. Điều cần thiết là phải có một khuynh hướng ban đầu nào đó, để làm cơ sở cho tình cảm vị kỷ [6], bằng mang lại sự thích thú cho những mục tiêu nó theo đuổi; và không gì phù hợp cho mục đích này hơn lòng từ thiện hay lòng nhân đạo. Của cải được chi tiêu vào sự thỏa mãn này hay sự thỏa mãn khác: Kẻ keo kiệt, người tích lũy thu nhập hàng năm của mình và cho vay lấy lãi, thực ra đã chi tiêu vào sự thỏa mãn lòng tham của mình. Và sẽ rất khó để cho thấy tại sao một người lại trở thành kẻ thua thiệt nhiều hơn bởi một hành động hào hiệp, hơn là bởi bất kỳ phương pháp tiêu pha nào khác; bởi vì, xét cho cùng, điều tối đa vốn người này có thể đạt được, bằng tình cảm vị kỷ phức tạp nhất, chỉ là sự thỏa mãn một ham muốn hoặc nuông chiều một tình cảm nào đó.

 

M 9. 21, SBN 281-2

Bây giờ, nếu đời sống sẽ hoàn toàn tẻ nhạt và nhàm chán nếu không có tình cảm, hãy tưởng tượng một người có thể định hình tính cách của chính minh hoàn toàn theo ý muốn. Sau đó, người này có thể cân nhắc kỹ lưỡng xem mình sẽ chọn những ham muốn hay khát khao nào làm nền tảng cho hạnh phúc và niềm vui của mình. Người này sẽ nhận thấy rằng, mọi tình cảm, khi được thỏa mãn bởi thành công, đều mang lại sự hài lòng tỷ lệ thuận với cường độ của nó; nhưng bên cạnh thuận lợi này, có chung với tất cả, cảm giác ngay lập tức về lòng từ thiện và tình thân hữu, lòng nhân đạo và sự tử tế, thì ngọt ngào, êm dịu, dịu dàng và dễ chịu, không tùy thuộc vào vận may hay hoàn cảnh bên ngoài. Những đức hạnh này còn đi kèm với một ý thức hay ký ức dễ chịu, và giúp chúng ta bình yên với chính mình cũng như với người khác, bằng cách cho phép chúng ta suy ngẫm về việc đã làm tròn bổn phận của chúng ta cho nhân loại và xã hội. Và mặc dù tất cả mọi người đều ghen tị với thành công của chúng ta trong việc theo đuổi lòng tham và tham vọng; nhưng chúng ta gần như chắc chắn về thiện chí và những lời chúc tốt đẹp của họ, miễn là chúng ta kiên trì trên con đường đức hạnh và tận tâm thực hiện những kế hoạch và mục đích cao cả. Còn tình cảm nào khác vốn ta có thể tìm thấy nhiều hữu ích hội tụ đến vậy: một tình cảm dễ chịu, một lương tâm dễ chịu, một danh tiếng tốt? Nhưng về những sự thực này, chúng ta có thể nhận thấy, con người tự thân đã khá bị thuyết phục; và họ không hề thiếu sót trong bổn phận đối với xã hội, không phải vì họ không muốn trở nên hào phóng rộng lượng, thân thiện và nhân đạo; nhưng vì họ không cảm thấy bản thân họ là người như vậy.

 

M 9. 22, SBN 282-3

Khi đối xử với thói hư tật xấu một cách khoan dung nhất, nhượng bộ nó hết mức có thể, thì cũng phải nhìn nhận rằng chẳng có trường hợp nào – dù nhỏ bé nhất – để có cớ ưu tiên thói xấu hơn đức hạnh nếu xét từ góc độ lợi ích bản thân; ngoại trừ, có lẽ, trường hợp của công lý, khi một người nhìn sự việc theo một góc độ nhất định, thường cảm thấy mình thiệt thòi vì giữ sự chính trực. Và dù ai cũng nhìn nhận rằng nếu không tôn trọng sở hữu tài sản thì không xã hội nào tồn tại nổi; nhưng theo cách điều hành công việc con người còn đầy bất toàn, một kẻ láu cá khôn ngoan,[7] trong những tình huống riêng lẻ, có thể nghĩ rằng một hành vi bất chính hay bội tín sẽ tăng thêm tài sản của mình nhưng không gây tổn hại nghiêm trọng đến trật tự xã hội. Câu nói trung thực là thượng sách có thể là một quy luật tổng quát tốt, nhưng có thể có những ngoại lệ. Và người ta có thể nghĩ rằng kẻ khôn ngoan nhất chính là kẻ tuân theo quy luật tổng quát, đồng thời tận dụng triệt những cơ hội trong những ngoại lệ.

.

 

M 9. 23, SBN 283

Tôi phải thú nhận rằng, nếu một người nghĩ rằng lý luận này rất cần một trả lời, thì sẽ hơi khó để tìm được bất kỳ trả lời nào, khiến với người này có vẻ hài lòng và thuyết phục với nó. Nếu trái tim người này không phản kháng lại những châm ngôn tai hại như vậy, nếu người này không cảm thấy ngần ngại trước những suy nghĩ về sự đồi bại hay đê tiện, thì người này thực sự đã đánh mất một động lực đáng kể cho đức hạnh; và chúng ta có thể mong đợi rằng, hành động của người này sẽ chịu trách nhiệm cho sự suy đoán của chính mình. Nhưng trong tất cả những bản chất ngây thơ, sự phản với sự phản bội và gian lận quá mạnh mẽ để có thể bị cân bằng bởi bất kỳ quan điểm nào về lợi nhuận hay hữu ích tiền bạc. Sự bình yên nội tâm, sự thỏa mãn của sự chính trực, và khả năng xem xét lại hành vi của mình với sự mãn nguyện; đây là những điều kiện rất cần thiết cho hạnh phúc, và sẽ được trân trọng và vun đắp bởi mọi con người trung thực, những người cảm thấy tầm quan trọng của chúng.

 

M 9. 24, SBN 283

Hơn nữa, một người như vậy [người ngay thẳng] còn thường xuyên có được sự hài lòng khi chứng kiến những kẻ láu cá khôn ngoan, với tất cả tinh ranh và khả năng của chúng, bị chính những nguyên tắc của chúng phản bội. Trong khi chúng định lừa đảo một cách thận trọng và bí mật, một cơ hội hấp dẫn nào đó xuất hiện, bản chất con người tỏ ra yếu đuối, và chúng rơi vào bẫy. Từ đó, chúng không bao giờ có thể thoát khỏi hậu quả mà không hủy hoại hoàn toàn danh tiếng và đánh mất mọi tín nhiệm và tin cậy trong tương lai với loài người.

 

M 9. 25, SBN 283-4

Nhưng dù họ có bí mật và thành công đến đâu chăng nữa, người ngay thẳng, nếu người này có chút kiến thức về triết học, hoặc ngay cả sự quan sát và suy ngẫm thông thường, sẽ nhận ra rằng chính bản thân những người đó (người lừa đảo tinh ranh), xét cho cùng, lại là những người bị lừa gạt lớn nhất, và đã hy sinh sự tận hưởng vô giá của một của một nhân cách danh dự, ít nhất là với chính bản thân họ, để đổi lấy việc sở hữu những đồ chơi và vật trang sức vô giá trị. Những gì cần thiết để đáp ứng những nhu cầu tự nhiên của con người thật ra ít ỏi biết bao? Và khi nói đến lạc thú, làm sao có thể so sánh những thú vui không thể mua được của trò chuyện, giao lưu, học tập, sức khỏe, hay cái đẹp giản dị của thiên nhiên, và trên hết, sự mãn nguyện bình yên đến từ suy ngẫm về hành vi của chính một người. Tôi xin hỏi, có so sánh nào giữa những điều này, với những thú vui trống rỗng, xa hoa, hão huyền, phù phiếm? Quả thực, những thú vui tự nhiên này đều vô giá; vừa vì chúng gần như chẳng tốn kém gì để có được, và vì chúng vượt xa bất kỳ giá trị nào khi vui hưởng chúng.

 

 

 

----------------------------------------------------------------

 

M 9. 2n53, SBN 269

  1. Những phẩm tính có lợi cho người khác.

 

M 9. 2n54, SBN 269

  1. Những phẩm tính có ích cho bản thân người đó.

 

M 9. 2n55, SBN 269

  1. Những phẩm tính được người khác chấp nhận ngay lập tức.

 

M 9. 2n56, SBN 270

  1. Những phẩm tính vốn bản thân người đó dễ chấp nhận.

 

M9. 8n57

  1. Xem GHI CHÚ [NN].

 

M 9. 8n57. 1, SBN 274-5

Dường như chắc chắn, cả về lý trí lẫn kinh nghiệm, rằng một kẻ man rợ thô lỗ, thiếu học thức đánh giá tình yêu và lòng thù hận của người này gần như hoàn toàn dựa trên những cân nhắc về lợi ích và tổn hại cá nhân, và chỉ có một khái niệm mơ hồ về bất kỳ quy tắc hay hệ thống ứng xử chung nào. Hắn căm ghét kẻ đối đầu với hắn trong trận chiến một cách dữ dội - không chỉ trong khoảnh khắc (điều gần như không thể tránh khỏi), mà còn mãi về sau; và hắn sẽ không hài lòng cho đến khi trả thù được tận gốc, với trừng phạt và trả thù tàn khốc nhất. Tuy nhiên, chúng ta, những người đã được định hình bởi cuộc sống xã hội và bởi sự suy ngẫm rộng lớn hơn, nhận ra rằng một người như vậy hành động là để phục vụ đất nước và cộng đồng của người này; rằng bất kỳ ai đặt vào hoàn cảnh tương tự cũng sẽ hành động tương tự; rằng chính chúng ta cũng sẽ làm điều tương tự; và rằng, nói chung, xã hội loài người được duy trì tốt nhất bởi những nguyên tắc loại này. Bằng chấp nhận những quan điểm này, ở một mức độ nào đó, chúng ta sửa chữa những tình cảm thô lỗ và hẹp hòi của chúng ta. Và mặc dù phần lớn tình thân hữu và thù hận của chúng ta vẫn được điều chỉnh bởi những cân nhắc riêng tư về lợi ích và tổn hại cá nhân, ít nhất chúng ta cũng tỏ lòng tôn trọng này với những quy luật chung vốn chúng ta đã nhìn nhận. Chúng ta thường bóp méo hành động của đối thủ bằng cách gán ghép cho họ những động cơ ác ý hoặc bất công, chỉ để thoả mãn những cảm xúc phát sinh từ lòng vị kỷ và lợi ích riêng tư. Khi trái tim đầy giận dữ, nó chẳng bao giờ thiếu những cớ để biện minh – dù đôi khi những lý lẽ ấy lố ​​bịch như trường hợp của Horace, người sau khi suýt bị một cây đổ đè bẹp, lại vin vào tội 'giết cha' để buộc tội người trồng cây ban đầu. [8]

 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(May/2025)

(Còn tiếp... )

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 



[1] Cleanthes ở đây không nói đến cùng một nhân vật xuất hiện trong Những Đàm thoại về Tôn giáo Tự nhiên của Hume. Trong Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức này, Hume dùng cái tên này một cách tượng trưng, ​​theo một quy ước cổ điển, để mô tả một con người lý tưởng, đức hạnh và nhân cách tốt đẹp – một hiện thân của sự xuất sắc về đạo đức và xã hội hơn là một nhân vật triết học cụ thể.

[2] Baltasar Gracián (1601–1658) là một thày chăn chiên dòng Jesuit người Spain, một triết gia đạo đức, nổi tiếng với tác phẩm The Art of Worldly Wisdom, một tập hợp những châm ngôn về sự thận trọng, đức hạnh và cách cư xử tao nhã. Baldassare Castiglione (1478–1529) là một cận thần người Ý và là tác giả của The Book of the Courtier, một cuốn cẩm nang thời Phục Hưng mô tả một quý ông lý tưởng – lịch thiệp, dí dỏm và ngay thẳng về mặt đạo đức.

[3] Hume đang mỉa mai khi ông nhận xét về “những kẻ cuồng tín u ám, đầu óc rỗng tuếch”. Ông nói đến việc Hội nhà thờ Kitô, và đôi khi là những truyền thống tôn giáo khác, đã phong thánh cho những nhà khổ hạnh hoặc nhà thần bí cực đoan mà hành vi của họ có vẻ cuồng tín hoặc buồn tẻ đối với người bình thường. Ví dụ có thể kể đến thánh chiên Simeon Stylites, người đã dành hàng thập kỷ trên đỉnh một cột đá giữa sa mạc như một hành động sám hối cực độ, và thánh chiên Anthony the Great, người đã hoàn toàn ẩn mình vào nơi hoang dã, ăn chay và chịu đựng những thử thách khắc nghiệt. Ngay cả những nhân vật như thánh chiên Phanxicô thành Assisi, được ngưỡng mộ vì sự hiền lành, cũng có thể có vẻ “tu sĩ” đối với Hume vì sự nghèo khó và tự chối bỏ bản thân của ông, trong khi những nhà thần bí như thánh chiên Teresa thành Ávila và thánh chiên Catherine thành Siena được biết đến với những linh ảnh và sự tự hành xác nghiêm ngặt. Quan điểm của Hume không phải là để chỉ ra những cá nhân cụ thể, mà là để làm nổi bật một kiểu người: nhà khổ hạnh tôn giáo tự hành xác, từ bỏ cuộc sống trần tục và những thú vui tự nhiên. Một người như vậy có thể được tôn vinh là thánh sau khi chết, nhưng khi còn sống hiếm khi được chào đón trong xã hội bình thường, ngoại trừ những người cũng u ám hoặc cuồng tín như vậy.

[4] Avarice, ambition, vanity

[5] Solon (khoảng 638–558 TCN), nhà lập pháp Athens, đã ban hành một đạo luật trừng phạt hoặc tước quyền công dân của những người giữ thái độ trung lập trong những cuộc xung đột dân sự (stasis) – những cuộc đấu tranh nội bộ ở Athens giữa những phe phái quý tộc và bình dân trong thế kỷ 7–6 TCN. Đây là những cuộc tranh giành quyền lực chính trị và trật tự xã hội, chứ không phải chiến tranh giữa những quốc gia. Những cải cách của Solon, bao gồm cả đạo luật này, nhằm mục đích ổn định xã hội và ngăn chặn sự hỗn loạn. Điều này được thảo luận trong những nguồn tài liệu cổ như Plutarch, Lives: Solon XX (khoảng 46–119 CN).

[6] Những phẩm tính cá nhân chủ yếu mang lại lợi ích cho bản thân hơn là cho người khác.

[7] sensible knave: (sensible: có lý trí, khôn ngoan, nhạy bén, biết cân nhắc. knave: kẻ lừa đảo, kẻ gian xảo, kẻ vô lại. kẻ láu cá khôn ngoan) = một người khôn ngoan nhưng vị kỷ, sẵn sàng sẵn sàng “lách luật”, vi phạm đạo đức hoặc quy tắc xã hội nếu thấy có lợi cho bản thân, nhưng không đến mức ác độc hay tàn bạo. Đây là nhân cách điển hình Hume dùng để thử thách lý thuyết đạo đức của ông: liệu một người lý trí, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, có luôn luôn chọn sống trung thực hay không?

[8] Hume nói đến một đoạn hài hước trong tác phẩm của nhà thơ La Mã Horace (Satires /Trào phúng, II. 3). Horace kể về lần suýt bị một cây đổ đè trúng người, rồi trong cơn tức giận, ông đùa rằng muốn buộc tội kẻ trồng cây ấy tội 'giết cha' – một cáo buộc hoang đường và phi lý đến mức lố bịch. Bằng ví dụ này, Hume muốn chỉ ra rằng khi tức giận, con người sẵn sàng bịa ra bất kỳ cáo buộc nào – dù vô lý hay quá đà – chỉ để biện minh cho sự phẫn nộ của mình.