(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)
David Hume
MỤC IX.
Phần Kết Luận.
PHẦN I.
M 9.1, SBN 268-9
Quả thực có thể gây ngạc nhiên rằng, trong một
thời đại đã tiến bộ như vậy, vẫn còn người cảm thấy cần phải chứng minh – bằng
những lý lẽ công phu – rằng GIÁ TRỊ CÁ NHÂN hoàn toàn nằm ở việc sở hữu những
phẩm chất tinh thần hữu ích hoặc dễ chịu cho chính bản thân người đó hoặc cho
người khác. Người ta có thể mong đợi rằng nguyên lý này đã được nhận ra ngay cả
bởi những nhà nghiên cứu đạo đức sơ khai, thiếu kinh nghiệm nhất, và đã được chấp
nhận từ chính sự hiển nhiên của nó, mà không cần bất kỳ tranh luận hay bàn cãi
nào.Bất cứ gì có giá trị, dù thuộc loại nào, đều tự nhiên được xếp vào một
trong hai hạng mục: hữu ích hoặc dễ chịu (utile hoặc dulce), đến mức khó có thể
tưởng tượng tại sao chúng ta lại cần tìm kiếm thêm, hay coi vấn đề này như một
chủ đề cần nghiên cứu hay điều tra tỉ mỉ. Và vì mọi thứ hữu ích hoặc dễ chịu đều
phải mang những phẩm chất đó đối với chính bản thân người đó hoặc đối với người
khác, nên việc mô tả hoặc định nghĩa đầy đủ về giá trị cá nhân dường như được
thực hiện một cách tự nhiên như bóng được chiếu bởi mặt trời, hay hình ảnh được
phản chiếu trên mặt nước.Nếu mặt đất, nơi bóng được chiếu xuống, không gồ ghề
hay lồi lõm; và mặt nước, nơi hình ảnh được phản chiếu, không bị xáo động hay mờ
ảo, thì một hình ảnh chính xác sẽ lập tức hiện ra mà không cần bất kỳ kỹ thuật
hay chú ý nào. Và có vẻ như một giả định hợp lý rằng những hệ thống và giả thuyết
đã làm sai lệch sự hiểu biết tự nhiên của chúng ta; khi một lý thuyết đơn giản
và hiển nhiên như vậy lại có thể tránh khỏi sự kiểm tra kỹ lưỡng nhất trong một
thời gian dài như thế.
M 9.2, SBN 269-70
Nhưng dù cho triết học có thể đã thành công
hay thất bại trong vấn đề này thế nào đi nữa, trong đời sống thường ngày, những
nguyên lý này vẫn ngầm được duy trì. Khi chúng ta khen ngợi hay chỉ trích, ca tụng
hay phê phán hành động và ứng xử của con người, chúng ta không bao giờ dựa vào
bất kỳ chủ đề nào khác ngoài những nguyên lý này. Nếu quan sát con người trong
mọi giao tiếp công việc hay giải trí, trong mọi trò chuyện và đối thoại, chúng
ta sẽ không tìm thấy ai, ngoại trừ những triết gia và học giả trong những trường
phái bối rối hoặc không chắc chắn về chủ đề này.
Thí dụ, còn gì tự nhiên hơn trò chuyện sau
đây? – Chắc hẳn ông rất sung sướng, chúng ta có thể giả định một người nói như
vậy khi nói với một người khác, rằng ông đã gả con gái cho Cleanthes. Anh ấy là
một người trọng danh dự và nhân ái. Bất cứ ai giao thiệp với anh ấy đều chắc chắn
sẽ được đối xử công bằng và tử tế [53]. – Tôi cũng xin chúc mừng ông, một người
khác nói, về những kỳ vọng đầy hứa hẹn của người con rể này; người mà sự siêng
năng nghiên cứu luật pháp, sự hiểu biết nhanh chóng và kiến thức sớm về cả con
người và công việc, dự báo những vinh dự và và sự thăng tiến lớn nhất [54]. –
Ông làm tôi ngạc nhiên, người thứ ba trả lời, khi ông nói về Cleanthes như một
con người công việc và học thức. Tôi đã gặp anh ấy gần đây trong một nhóm bạn
vui vẻ nhất, và anh ấy là chính linh hồn của trò chuyện của chúng tôi: Rất nhiều
trí thông minh với cách cư xử tốt; rất nhiều sự hào hiệp vốn không giả tạo; rất
nhiều kiến thức uyên bác được truyền đạt một cách lịch thiệp, tôi chưa bao giờ
thấy trước đây ở bất kỳ ai [55]. – Ông sẽ ngưỡng mộ anh ấy hơn nữa, người thứ
tư nói, nếu ông biết anh ấy thân thiết hơn. Sự vui vẻ mà ông có thể nhận thấy ở
anh ấy, không phải là một tia sáng lóe lên đột ngột từ đám đông: Nó chạy qua
toàn bộ cuộc đời anh ấy, và giữ cho vẻ mặt anh luôn thanh thản, tâm hồn anh
tĩnh lặng. Anh ấy đã trải qua những thử thách, bất hạnh và nguy hiểm khắc nghiệt;
và nhờ sự vĩ đại của tâm hồn, Anh vẫn vượt trội hơn tất cả những sự việc đó
[56]. Thưa quý ông, tôi kêu lên, bức tranh mà quí vị vừa vẽ về Cleanthes là một
đức hạnh trọn vẹn và hoàn hảo. Mỗi người
trong những vị đã thêm một nét cọ vào chân dung của anh ấy, và cùng nhau, dù
không cố ý, quí vị đã vượt qua tất cả những nhân vật mà Gracián hay Castiglione
đã khắc họa. Một triết gia hoàn toàn có thể chọn người này làm mẫu mực của đức
hạnh toàn hảo.
M 9.3, SBN 270
Và vì mọi phẩm tính có lợi hay dễ chịu với bản
thân hay người khác, trong kinh nghiệm sống thường nhật của con người, thường
được công nhận là một phần của giá trị cá nhân, thì không một phẩm tính nào
khác được chấp nhận là đức hạnh – ít nhất
là bởi những người đánh giá bằng lý trí tự nhiên, không định kiến, chứ không phải
qua lăng kính lừa dối của mê tín hay tôn giáo sai lầm.
Ví dụ, hãy lấy việc độc thân, ăn chay, sám hối,
hành xác, tự chối bỏ bản thân, khiêm nhường, im lặng, cô độc, và tất cả những
cái gọi là "đức hạnh của tu sĩ" đó làm ví dụ. Tại sao những những người
có lý trí sáng suốt ở khắp mọi nơi lại từ chối chúng? Đơn giản vì chúng không
phục vụ mục đích thực sự nào cả – chúng không giúp một người thành công trong
cuộc sống, khiến người này trở thành một thành viên tốt hơn của xã hội, giúp
người này trở thành một người bạn đồng hành dễ chịu hay tăng thêm hạnh phúc cho
chính người này. Ngược lại, chúng ta thấy rằng những thực hành như vậy vượt qua
tất cả những mục đích mong muốn này; làm ngu ngốc sự hiểu biết và chai sạn trái
tim, che mờ trí tưởng tượng và làm chua chát tính khí.Vì vậy, chúng ta hoàn
toàn đúng khi xếp chúng vào danh sách những thói xấu. Không một mê tín dị đoan
nào, dù mạnh mẽ đến đâu, có thể hoàn toàn làm hỏng cảm xúc tự nhiên của những
người sáng suốt. Một kẻ cuồng tín u ám, điên loạn có thể được xếp vào hàng những
vị thánh sau khi chết; nhưng khi còn sống, hắn khó có thể tìm được chỗ đứng
trong tình bạn hay xã hội của bất kỳ ai – ngoại trừ những người ảm đạm và ảo tưởng như
chính người ấy. Do đó, chúng ta chuyển những phẩm tính đó sang cột đối diện và
xếp chúng vào danh mục những thói hư tật xấu; cũng không một mê tín nào đủ mạnh
mẽ, giữa những người sáng suốt, để làm băng hoại hoàn toàn những tình cảm tự
nhiên này. Một kẻ cuồng tín u ám, nửa điên nửa tỉnh có thể, sau khi chết, được
công nhận chính thức là một vị thánh và được đưa vào lịch những thánh của hội
Nhà thờ., nhưng khi còn sống, người này hiếm khi được chào đón vào những quan hệ
bình thường hay bạn bè thân thiết – ngoại
trừ những người cũng mê muội và buồn bã u ám như chính người này.
M 9.4, SBN 270-1
Có vẻ như thật may mắn khi lý thuyết hiện tại
không đi sâu vào tranh luận tầm thường về mức độ từ thiện hay tình cảm vị kỷ
tương ứng trong bản chất con người; một tranh luận khó có thể giải quyết, bởi
vì những người tham gia không dễ bị thuyết phục, và bởi vì những hiện tượng có
thể xảy ra ở cả hai phía đều rất phân tán, không chắc chắn, và dễ bị diễn giải
theo nhiều cách khác nhau, đến mức khó có thể so sánh chúng một cách chính xác,
hoặc rút ra bất kỳ suy luận hay kết luận chắc chắn nào từ chúng. Mục đích hiện
tại của chúng ta chỉ cần thừa nhận rằng, điều chắc chắn, không thể phủ nhận, mà
không hề phi lý, là có một chút từ thiện nào đó, dù nhỏ bé, được truyền vào
lòng chúng ta; một tia lửa tình thân thiện nào đó dành cho loài người; một chút
tinh thần bồ câu – sự dịu dàng, tử tế,
hoặc thiện chí – nào đó, được nhào nặn
vào cơ thể chúng ta, cùng với những yếu tố của sói đá và rắn độc. Hãy để những
tình cảm hào hiệp này được coi là yếu ớt; hãy để chúng thậm chí không đủ để lay
động dù chỉ một bàn tay hay một ngón tay trên cơ thể chúng ta; Chúng vẫn phải
chỉ đạo những quyết định của não thức chúng ta, và khi mọi sự vật việc khác đều
bình đẳng, sẽ tạo ra một sự ưu tiên bình tĩnh cho những gì có lợi và có ích cho
loài người, hơn là những gì có hại và nguy hiểm. Do đó, một sự phân biệt về đạo
đức ngay lập tức nảy sinh; một cảm giác tổng quát về khiển trách và tán thành;
một khuynh hướng, dù yếu ớt, với những mục tiêu của bên này, và một ác cảm
tương ứng với những mục tiêu của bên kia. Những nhà lý luận, những người hết
lòng duy trì tình cảm vị kỷ ưu thắng của loài người, cũng sẽ không hề cảm thấy
bị xúc phạm khi nghe về những tình cảm yếu đuối về đức hạnh đã ăn sâu vào bản
chất chúng ta. Ngược lại, những người lý luận này thường háo hức bảo vệ quan điểm
này cũng như quan điểm kia; và chính tinh thần châm biếm của họ (vì nó hiện ra
như mỉa mai đúng hơn là suy đồi đạo đức), đã tự nhiên tạo ra cả hai quan điểm,
trên thực tế, chúng có liên hệ chặt chẽ và gần như không thể tách rời với nhau.
M 9.5, SBN 271-2
Lòng tham, tham vọng, sự phù phiếm, và tất cả
những tình cảm tầm thường, mặc dù không đúng đắn, được bao hàm dưới cái tên tự
ái, ở đây bị loại trừ khỏi lý thuyết của chúng ta về nguồn gốc của đạo đức,
không phải vì chúng quá yếu, vốn vì chúng không có một định hướng đúng đắn cho
mục đích đó. Khái niệm đạo đức hàm ý một tình cảm chung cho toàn thể loài người,
khuyến nghị cùng một đối tượng để được chấp thuận chung, và khiến mọi người,
hay hầu hết mọi người, đồng tình trong cùng một quan điểm hay quyết định liên
quan đến nó. Nó cũng hàm ý một tình cảm phổ quát và toàn diện đến mức mở rộng đến
toàn thể loài người, và khiến hành động và hành vi, ngay cả của những người xa
lạ nhất, trở thành đối tượng được hoan nghênh hay chỉ trích, tùy thuộc vào việc
họ đồng tình hay phản với quy luật đúng đắn đã được thiết lập. Chỉ có hai hoàn
cảnh cần thiết này thuộc về tình cảm của loài người được nhấn mạnh ở đây. Những
tình cảm khác sinh sản trong mỗi con tim nhiều tình cảm mạnh mẽ về ham muốn và
ác cảm, yêu mến và căm ghét; nhưng cả hai đều không được cảm nhận chung, cũng
không toàn diện đến mức trở thành nền tảng của bất kỳ hệ thống chung và lý thuyết
đã được thiết lập nào về sự khiển trách hay chấp thuận.
M 9.6, SBN 272-3
Khi một người gọi một ai đó là kẻ thù, đối thủ,
đối địch, hoặc kẻ chống đối của mình, chúng ta hiểu rằng người này đang nói vì
lợi ích cá nhân – bộc lộ cảm xúc xuất
phát từ hoàn cảnh cá nhân.Nhưng khi người này gọi ai đó là xấu xa, đáng ghét,
hay đồi bại, người này đang nói một ngôn ngữ khác – một ngôn ngữ khơi gợi ý thức đạo đức chung.
Khi làm như vậy, anh ta mong đợi mọi người lắng nghe đều đồng tình với phán
đoán của mình. Do đó, ở đây, người này phải rời bỏ tình thế riêng tư và đặc
thù, và phải chọn một quan điểm có chung giữa người này với những người khác.
Người này phải khơi gợi một nguyên lý phổ quát nào đó trong bản chất con người,
và chạm vào một sợi dây đồng cảm vốn tất cả loài người đều có thể cộng hưởng.
Do đó, nếu người này muốn nói rằng người kia sở hữu những phẩm tính có có
khuynh hướng gây hại cho xã hội, thì thì người này đã chọn quan điểm chung này,
và đã chạm vào nguyên lý nhân đạo – một nguyên lý mà mỗi người, ở một mức độ
nào đó, đều đồng tình. Chừng nào trái tim con người vẫn được cấu thành từ những
yếu tố như ngày nay, nó sẽ không bao giờ hoàn toàn thờ ơ với lợi ích chung,
cũng không bao giờ thờ ơ với phẩm tính và hành vi đạo đức của người khác. Và mặc
dù tình cảm nhân đạo này có thể không mạnh mẽ như lòng tự cao hay tham vọng,
nhưng nó được chia sẻ bởi tất cả mọi người, và do đó, chỉ riêng nó mới có thể
đóng vai trò là nền tảng thực sự của đạo đức, hay của bất kỳ hệ thống tổng quát
nào về sự khiển trách hay khen ngợi. Tham vọng của người này không phải là của
người khác; điều gì kích thích hoặc thỏa mãn người này chưa chắc đã làm người
kia rung động. Nhưng tình nhân đạo trong mỗi người là như nhau, và cùng một đối
tượng khơi dậy tình cảm này trong mỗi con người.
M 9.7, SBN 273
Nhưng những tình cảm phát sinh từ tình nhân đạo
không chỉ giống nhau trong tất cả con người và tạo ra sự tán thành hoặc chỉ
trích như nhau, nhưng chúng còn bao trùm tất cả mọi người; và không có bất kỳ
ai mà hành vi hoặc tính cách của họ, qua những tình cảm này, lại không trở
thành đối tượng để mỗi người khác đánh giá hoặc phê phán. Ngược lại, những tình
cảm khác, thường được gọi là tình cảm vị kỷ, không chỉ tạo ra những tình cảm
khác nhau ở mỗi cá nhân, tùy theo hoàn cảnh cụ thể của người đó; nhưng còn nhìn
phần lớn loài người với sự thờ ơ và vô tâm tối đa. Bất kỳ ai coi trọng và đánh
giá cao tôi sẽ làm thỏa mãn lòng tự ái của tôi; ai thể hiện sự khinh miệt sẽ
làm tôi tổn thương và bất mãn. Nhưng vì tên tuổi của tôi chỉ được biết đến bởi
một phần nhỏ loài người, nên rất ít người nằm trong phạm vi ảnh hưởng của tình
cảm này, hoặc khơi dậy – vì nó – sự yêu mến hay chán ghét của tôi. Nhưng nếu bạn
mô tả một hành vi bạo ngược, ngạo mạn, hoặc man rợ ở bất kỳ quốc gia nào hay bất
kỳ thời đại nào trên thế giới, tôi sẽ nhanh chóng nhìn thấy khuynh hướng tai hại
của hành vi đó, và cảm thấy ghê tởm và bất mãn, khó chịu đối với nó. Không có
nhân vật nào xa lạ đến mức, dưới góc nhìn này, trở nên hoàn toàn vô cảm đối với
tôi. Điều gì có lợi cho xã hội hoặc cho chính bản thân người đó vẫn phải được
ưa chuộng. Và mỗi phẩm chất hoặc hành động của mỗi con người, qua cách này, đều
phải được xếp vào một loại hoặc danh mục nào đó, thể hiện sự chỉ trích hay tán
dương chung.
M 9.8, SBN 273-4
Vậy thì chúng ta còn có thể đòi hỏi gì hơn nữa
để phân biệt những tình cảm phụ thuộc vào lòng nhân đạo với những tình cảm gắn
liền với bất kỳ đam mê nào khác, hoặc để thuyết phục chúng ta rằng những tình cảm
trước mới là nguồn gốc của đạo đức, chứ không phải những tình cảm sau? Bất kỳ
hành vi nào giành được sự tán thành của tôi bằng cách chạm đến lòng nhân đạo của
tôi, cũng sẽ nhận được sự tán dương của toàn thể loài người, bởi vì nó tác động
đến nguyên lý tương tự trong họ. Nhưng những gì phục vụ lòng tham hoặc tham vọng
của tôi chỉ làm hài lòng những tình cảm này trong tôi mà thôi, và không ảnh hưởng
đến lòng tham hoặc tham vọng của phần còn lại của loài người. Không có bất kỳ
hoàn cảnh của hành vi ứng xử nào của bất kỳ một người nào, miễn là nó có khuynh
hướng mang lại lợi ích, mà không làm tôi cảm thấy dễ chịu vì lòng nhân đạo của
tôi, dù người đó có xa lạ đến đâu. Nhưng bất kỳ người nào, nếu không cản trở hoặc
phục vụ lòng tham và tham vọng của tôi, đều bị những tình cảm đó coi là hoàn
toàn thờ ơ. Do đó, sự khác biệt giữa những loại tình cảm này quá lớn và rõ
ràng, ngôn ngữ phải sớm được định hình theo nó, và phải phát minh ra một tập hợp
những thuật ngữ đặc biệt, để diễn đạt những tình cảm phổ quát về sự chỉ trích
hay chấp thuận, xuất phát từ lòng nhân đạo, hay từ quan điểm về sự hữu ích
chung và những điều trái ngược với nó. ĐỨC HẠNH và THÓI HƯ TẬT XẤU từ đó được
nhận biết; ĐẠO ĐỨC được thừa nhận. Những khái niệm tổng quát về hành vi và cách
ứng xử của con người được hình thành: Người ta kỳ vọng những hành động nhất định
từ con người trong những hoàn cảnh nhất định. Hành động này được xác định là
phù hợp với quy luật trừu tượng của chúng ta; hành động kia thì ngược lại. Và
qua những nguyên lý phổ quát như vậy, những cảm xúc đặc thù của tình cảm vị kỷ
thường bị kiểm soát và giới hạn [57].
M 9.9, SBN 275-6
Từ những ví dụ về bất ổn công chúng, bạo loạn,
phe phái, hoảng loạn và tất cả những tình cảm được đông đảo quần chúng chia sẻ,
chúng ta có thể nhận thấy ảnh hưởng của xã hội trong việc khơi dậy và duy trì bất
kỳ cảm xúc nào Những rối loạn khó kiềm chế nhất cũng có thể bùng phát bằng cách
này, thường chỉ từ những nguyên nhân nhỏ nhặt và tầm thường nhất.Solon không phải
là một nhà lập pháp quá tàn nhẫn, dù có lẽ ông là một nhà lập pháp bất công khi
trừng phạt những người trung lập trong những cuộc nội chiến. Và tôi tin rằng, rất
ít người, trong những trường hợp như vậy, phải chịu hình phạt, nếu tình cảm và
lời nói của họ đủ để minh oan cho họ. Không một sự ích kỷ nào, và hiếm có triết
lý nào, đủ sức mạnh để duy trì một thái độ hoàn toàn lạnh lùng và thờ ơ; và người
nào không bùng cháy trong ngọn lửa chung của cộng đồng, thì người đó hoặc không
phải là con người, hoặc đã vượt xa khỏi con người.Không một ích kỷ nào, hay
ngay cả triết lý vững chắc nhất, có thể đủ sức giữ cho một người hoàn toàn bình
tĩnh và bất động khi ngọn lửa đam mê của đám đông bùng cháy. Bởi vì trong những
khoảnh khắc như vậy, cảm xúc của nhiều người trở nên lan tỏa, và lý trí cũng bị
cuốn theo dòng chảy. Người ta phải hoặc là siêu phàm – được ban cho một sự tách biệt gần như thần
thánh – hoặc là kém cõi, thiếu vắng những
đồng cảm tự nhiên gắn kết chúng ta lại với nhau, mới không cảm thấy trái tim
mình rung động trước ngọn lửa chung. Vậy thì có gì ngạc nhiên khi những tình cảm
đạo đức lại có ảnh hưởng lớn như vậy trong đời sống; mặc dù xuất phát từ những
nguyên lý, thoạt nhìn có vẻ hơi nhỏ bé và mong manh? Nhưng những nguyên lý này,
chúng ta phải lưu ý, mang tính xã hội và phổ quát: Theo một cách nào đó, chúng
hình thành nên phe nhóm của loài người chống lại thói hư tật xấu hay sự hỗn loạn,
kẻ thù chung của xã hội. Và vì lòng nhân ái dành cho những người khác được lan
tỏa, ít nhiều, đến tất cả mọi người, và giống nhau ở tất cả mọi người, nên nó
xuất hiện thường xuyên hơn trong lời nói, được xã hội và trò chuyện trân trọng,
và những chỉ trích hay tán thưởng, do đó, được đánh thức, thay vì bị bỏ mặc
trong trạng thái ngủ quên như khi sống cô lập hoặc trong môi trường nguyên thủy.
Những tình cảm khác dù có thể mạnh mẽ hơn theo bản năng ban đầu, nhưng vì mang
tính ích kỷ và chỉ giới hạn trong cá nhân, thường bị sức mạnh của tình cảm xã hội
kiềm chế, và phải nhường sự thống trị trong trái tim chúng ta cho những nguyên
lý nhân ái, rộng lượng và cộng đồng hơn.
M 9.10, SBN 276
Một nguồn sức mạnh khác trong bản chất chúng
ta, củng cố mạnh mẽ tình cảm đạo đức chính là lòng ham danh vọng; thứ chi phối,
với một quyền lực không thể kiểm soát, trong tất cả những tâm hồn rộng lượng,
và thường là mục tiêu lớn lao cho mọi kế hoạch và dự định của họ. Trong nỗ lực
không ngừng để có được danh tiếng tốt, một cái tên được kính trọng, hoặc một
nhân cách xuất chúng, chúng ta thường xuyên xem xét lại hành động của chính
mình và xem xét chúng xuất hiện như thế nào đối với những người quan sát chúng
ta. Thói quen thường xuyên tự vấn bản thân, như thể, trong sự phản chiếu, duy
trì mọi cảm xúc đúng sai, và khơi dậy, trong những bản chất cao quý, một sự tôn
kính nhất định với bản thân cũng như người khác; đó là người bảo vệ chắc chắn
nhất cho mọi đức hạnh. Ở những cá nhân như vậy, những tiện nghi và thú vui vật
chất đơn thuần dần dần mất đi giá trị; trong khi mọi cái đẹp nội tâm và những
phẩm chất đáng ngưỡng mộ và dễ chịu về đạo đức đều được trau dồi một cách cần mẫn,
và trí tuệ đạt đến mọi sự toàn hảo, điều có thể tô điểm hay làm đẹp thêm cho một
sinh vật lý trí.
M 9.11, SBN 276
Đây chính là đạo đức hoàn thiện nhất vốn chúng
ta biết đến: Ở đây thể hiện sức mạnh của nhiều sự đồng cảm. Tình cảm đạo đức của
chúng ta chủ yếu cũng là một loại cảm xúc như vậy: Và sự quan tâm của chúng ta
đến nhân cách của người khác dường như chỉ phát sinh từ mong muốn duy trì nhân
cách của chính mình; và để đạt được mục đích này, chúng ta thấy cần phải củng cố
phán đoán lung lay của mình bằng sự tán thành tương ứng từ loài người.
M 9.12, SBN 276-8
Nhưng để có thể giải quyết vấn đề và loại bỏ,
nếu có thể, mọi khó khăn, hãy thừa nhận rằng tất cả những lập luận này là sai lầm.
Hãy thừa nhận rằng, khi chúng ta giải thích vui sướng xuất phát từ quan điểm về
hữu ích thành tình cảm nhân đạo và sự đồng cảm, chúng ta đã chấp nhận một giả
thuyết sai lầm. Hãy thừa nhận rằng cần phải tìm một giải thích khác cho sự tán
dương dành cho những đối tượng, dù vô tri, hữu giác hay lý trí, nếu chúng có
khuynh hướng thúc đẩy phúc lợi và lợi ích của loài người. Dù khó có thể hình
dung rằng một đối tượng được chấp nhận chỉ vì nó hướng đến một mục đích nhất định,
trong khi bản thân mục đích đó lại hoàn toàn thờ ơ; chúng ta hãy chấp nhận sự
phi lý này và xem xét những hậu quả tiếp theo. Phân tích hoặc định nghĩa trước
đó về công đức cá nhân vẫn phải giữ nguyên bằng chứng giá trị và thẩm quyền
thuyết phục của nó. Vẫn phải nhìn nhận rằng mọi phẩm chất của tâm trí, hữu ích
hoặc dễ chịu cho bản thân hoặc người khác, đều tạo một vui thích cho người quan
sát, giành được sự tôn trọng của người đó, và xứng đáng được xếp vào danh xưng
danh dự là đức hạnh hoặc giá trị. Chẳng phải công lý, sự trung thực, danh dự, sự
chân thật, lòng trung thành và tiết hạnh chỉ được coi trọng vì chúng có khuynh
hướng thúc đẩy hữu ích xã hội hay sao? Chẳng phải khuynh hướng đó không thể
tách rời khỏi lòng nhân đạo, lòng từ thiện, sự khoan dung, lòng hào hiệp, lòng
biết ơn, sự điều độ, sự dịu dàng, tình thân thiện và tất cả những đức hạnh xã hội
khác hay sao? Liệu có thể hoài nghi rằng sự cần cù, sự thận trọng, tính tiết kiệm,
sự bí mật, sự ngăn nắp, sự kiên trì, sự suy tính trước, sự phán đoán và toàn bộ
những đức hạnh và thành tựu này, vốn nhiều trang sách sẽ không thể liệt kê hết
được; liệu có thể hoài nghi rằng, tôi nói rằng, khuynh hướng của những phẩm
tính này nhằm thúc đẩy hữu ích và hạnh phúc của người sở hữu chúng chính là nền
tảng duy nhất cho giá trị của chúng? Ai có thể phủ nhận rằng một tâm hồn luôn
giữ được sự thanh thản và vui tươi bất diệt, một phẩm giá cao quý và tinh thần
bất khuất, một tình cảm yêu thương và thiện chí với tất cả xung quanh; không chỉ
mang lại nhiều vui sướng hơn trong chính nó, mà còn là một cảnh tượng khích lệ
và đầy hứng khởi hơn so với một tâm hồn chìm trong u sầu, bị dày vò bởi lo âu,
bốc lửa vì giận dữ, hay chìm đắm trong sự hèn hạ và thoái hóa cùng cực nhất?
Còn những phẩm tính ngay lập tức làm hài lòng người khác, chúng tự nói lên giá
trị của chúng. Và thật không may mắn, người nào chưa bao giờ cảm nhận được sức
hấp dẫn của một trí tuệ hóm hỉnh hay sự hòa nhã lưu loát, của một sự khiêm tốn
tinh tế hay một thái độ và cử chỉ lịch sự, tao nhã, thì quả thực người đó phải
rất bất hạnh – hoặc trong tính khí, hoặc trong hoàn cảnh và ứng xử giao tiếp của
mình.
M 9.13, SBN 278
Tôi hoàn toàn nhận thức được rằng không có gì
phi triết học hơn việc chắc chắn hoặc giáo điều về bất kỳ chủ đề nào; và ngay cả
khi một người có thể duy trì sự hoài nghi cực độ, thì điều đó cũng không gây hại
gì cho mọi lý luận và nghiên cứu hợp lý. Tôi tin rằng, ở nơi con người tự tin
và kiêu ngạo nhất, họ thường là những người sai lầm nhất, và ở đó họ buông thả
cho tình cảm, vốn không có sự cân nhắc và thận trọng đúng đắn, vốn là thứ duy
nhất có thể bảo vệ họ khỏi những điều phi lý nhất. Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận
rằng cách liệt kê trên đã làm sáng tỏ vấn đề một cách mạnh mẽ đến mức, hiện tại,
tôi không thể chắc chắn hơn về bất kỳ chân lý nào mà tôi học được từ lý lẽ và
tranh luận, hơn là việc công đức cá nhân hoàn toàn nằm ở tính hữu ích hoặc sự dễ
chịu của những phẩm chất đối với chính người sở hữu chúng, hoặc đối với những
người có mối quan hệ với họ. Nhưng khi tôi suy ngẫm rằng, mặc dù kích thước và
hình dạng của Trái Đất đã được đo đạc và phác họa, dù chuyển động của thủy triều
đã được giải thích, hệ thống và chuyển động của những thiên thể đã được xác định
và ngay cả cả khái niệm về vô hạn đã được tính toán, nhưng con người vẫn còn
tranh luận về nền tảng của những nghĩa vụ đạo đức của họ, Khi tôi suy ngẫm về
điều này, tôi phải nói, tôi lại rơi vào hoài nghi và bất định, và nghi ngờ rằng
một giả thuyết rõ ràng như vậy, nếu nó là sự thật, thì đã được toàn thể loài
người chấp nhận với sự đồng thuận và tán thành tuyệt đối từ lâu rồi.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ
nhất
(May/2025)
(Còn tiếp... →)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
