Tuesday, December 2, 2025

Hume – Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức (12)

Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức

(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)

David Hume


( ← ... tiếp theo )

 

 


 

PHỤ LỤC I.

Về Tình Cảm Đạo Đức.

 

M App1.1, SBN 285

NẾU giả thuyết nêu trên được chấp nhận, thì bây giờ chúng ta sẽ dễ dàng xác định câu hỏi ban đầu đã nêu [58], liên quan đến những nguyên lý tổng quát về đạo đức; và mặc dù chúng ta đã hoãn quyết định về câu hỏi này, vì sợ rằng khi đó nó sẽ khiến chúng ta phải sa vào những suy đoán phức tạp, không phù hợp với những thảo luận đạo đức, giờ đây chúng ta có thể quay lại xem xét, đến mức độ nào, lý trí hay tình cảm đi vào mọi quyết định khen ngợi hay chỉ trích.

 

M App1.2, SBN 285-6

Một nền tảng chính của khen ngợi về đạo đức được giả định là nằm ở sự hữu ích của bất kỳ phẩm tính hay hành động nào; rõ ràng là lý trí phải dự vào một phần đáng kể trong tất cả những quyết định thuộc loại này; vì không có gì ngoài khả năng đó có thể hướng dẫn chúng ta về khuynh hướng của những phẩm tính và hành động, và cho thấy những hậu quả có lợi của chúng với xã hội và người sở hữu chúng. Trong nhiều trường hợp, đây là một vấn đề dễ gây tranh luận lớn: Những nghi ngờ có thể nảy sinh, những lợi ích đối lập có thể xuất hiện, và sự ưu tiên phải dành cho một bên dựa trên những cân nhắc tinh tế và và một chênh lệch nhỏ về lợi ích. Điều này đặc biệt đáng chú ý trong những câu hỏi liên quan đến công lý; như có thể tự nhiên mong đợi từ dạng lợi ích đặc trưng gắn liền vvới đức hạnh này [59]. Nếu mọi trường hợp đơn lẻ của công lý, giống như trường hợp của lòng từ thiện, đều lợi ích cho xã hội; thì đây sẽ là một trường hợp đơn giản hơn và hiếm khi gây tranh luận lớn. Nhưng vì những trường hợp riêng lẻ của công lý thường có hại trong khuynh hướng ban đầu và trực tiếp, và vì lợi ích cho xã hội chỉ đến từ tuân thủ quy luật tổng quát, và từ sự đồng thuận và kết hợp của nhiều người trong cùng một hành vi công bằng; nên trường hợp này trở nên phức tạp và rắc rối hơn. Những hoàn cảnh đa dạng của xã hội; những hậu quả khác nhau của bất kỳ thực hành nào; những hữu ích khác nhau, có thể được đưa ra: Trong nhiều trường hợp, tất cả những điều đều gây nghi ngờ và cần phải thảo luận, nghiên cứu sâu rộng. Đối tượng của luật pháp dân sự là giải quyết tất cả những câu hỏi liên quan đến công lý. Những tranh luận của những nhà luật học, những suy ngẫm của những nhà chính trị, những tiền lệ lịch sử và những văn bản và lưu trữ chính thức đều hướng đến cùng một mục đích. Và để đưa ra phán quyết chính xác giữa những nghi ngờ phức tạp nảy sinh từ những lợi ích mơ hồ hay đối lập, thường đòi hỏi một lý trí hoặc phán đoán vô cùng tinh tế và chính xác.

 

M App1.3, SBN 286

Nhưng mặc dù lý trí, khi được hỗ trợ và cải thiện đầy đủ, đủ để chỉ dẫn chúng ta về khuynh hướng có hại hay có ích của những phẩm tính và những hành động; nhưng nột mình nó không đủ để tạo ra bất kỳ chỉ trích hay tán thành nào về đạo đức. Lợi ích chỉ là khuynh hướng hướng đến một mục đích nhất định; và nếu mục đích đó hoàn toàn không liên quan đến chúng ta, chúng ta sẽ cảm thấy thờ ơ với phương tiện để đạt được nó. Ở đây, cần phải có một tình cảm thể hiện để ưu tiên những khuynh hướng hữu ích hơn những khuynh hướng có hại. Tình cảm này không thể là gì khác

hơn là một cảm xúc về hạnh phúc của nhân loại, và một phẫn uất trước về bất hạnh của họ; vì đây là những mục đích khác nhau vốn đức hạnh và thói hư tật xấu có khuynh hướng thúc đẩy. Do vậy, lý trí giúp chúng ta nhận thức được những khuynh hướng hành động khác nhau, còn lòng nhân đạo phân biệt và ưu tiên những hành động hữu ích và có lợi.

 

M App1.4, SBN 286-7

Sự phân chia này giữa những khả năng của hiểu biết (lý trí) và tình cảm trong mọi quyết định đạo đức dường như rõ ràng từ giả thuyết trước đó. Nhưng tôi sẽ giả định rằng giả thuyết đó là sai: Khi đó, cần phải tìm kiếm một lý thuyết khác, vốn có thể là thỏa đáng; và tôi dám khẳng định rằng sẽ không bao giờ tìm thấy một lý thuyết nào như vậy, chừng nào chúng ta còn cho rằng lý trí là nguồn gốc duy nhất của đạo đức. Để chứng minh điều này, chúng ta phải xem xét cẩn thận năm cân nhắc sau đây.

 

M App1.5, SBN 287

I.

Một giả thuyết sai lầm dễ dàng duy trì vẻ ngoài có vẻ đúng đắn, trong khi nó hoàn toàn dựa trên những khái quát chung, dùng những thuật ngữ không xác định và dùng phép so sánh thay vì thí dụ. Điều này đặc biệt đáng chú ý trong triết học, vốn gán cho lý trí khả năng phân biệt mọi sự khác biệt về đạo đức, vốn không cần sự đồng tình của tình cảm.

Không thể nào, trong bất kỳ trường hợp cụ thể nào, giả thuyết này ngay cả có thể trở nên rõ ràng dễ hiểu; cho dù nó có thể đưa ra những hình ảnh khoa trương nào trong những diễn thuyết hoặc thảo luận tổng quát. Thí dụ, hãy xem xét tội vô ơn bạc nghĩa, [1] vốn nó xuất hiện ở bất cứ nơi nào chúng ta quan sát thấy thiện chí được thể hiện và biết đến, cùng với việc làm tốt, ở một bên, và sự đáp trả bằng ác ý hoặc sự thờ ơ, cùng với việc làm xấu hoặc sao nhãng ở bên kia:: Hãy phân tích tất cả những trường hợp này, và chỉ bằng lý trí của bạn, hãy xem xét trong những gì gồm nên sự lầm lỗi hay điều đáng trách. Bạn sẽ không bao giờ đi đến bất kỳ vấn đề hay kết luận nào cả.

 

M App1.6, SBN 287-8

Lý trí phán đoán dựa trên hoặc sự kiện thực tế hay những quan hệ. Vậy trước tiên, hãy tìm hiểu xem sự kiện vốn chúng ta gọi là tội ác ở đâu; hãy cho thấy nó; xác định thời điểm hiện hữu của nó; mô tả bản chất hay bản chất của nó; giải thích ý nghĩa hay khả năng vốn nó tự tìm ra ra. Nó nằm trong não thức của người vô ơn. Do đó, người này phải cảm nhận được nó và ý thức được nó. Nhưng không có gì ở đó, ngoại trừ tình cảm của ác ý hay sự thờ ơ tuyệt đối. Bạn không thể nói rằng, tự thân những điều này, luôn luôn và trong mọi hoàn cảnh, là tội ác. Không: Chúng chỉ là tội ác, khi nhắm vào những người trước đây đã bày tỏ và thể hiện thiện chí với chúng ta. Do đó, chúng ta có thể suy ra rằng, tội vô ơn không phải là bất kỳ sự kiện cá nhân cụ thể nào; vốn phát sinh từ sự phức tạp của những tình cảnh, khi được trình bày trước người xem, sẽ khơi dậy cảm giác trách móc, bởi cấu trúc và kết cấu cụ thể của não thức người này.

 

M App1.7, SBN 288

Bạn nói rằng cách diễn đạt này là sai. Thực ra, tội phạm không nằm ở một sự kiện cụ thể nào đó, vốn lý trí bảo đảm về tính hiện thực của nó: Nhưng nó nằm ở những quan hệ đạo đức nhất định, được lý trí tìm ra, cũng giống như cách chúng ta tìm ra ra những sự thực của hình học hay đại số bằng lý trí. Nhưng tôi xin hỏi, những quan hệ vốn bạn đang nói đến ở đây là gì? Trong trường hợp nêu trên, trước tiên tôi thấy thiện chí và sự giúp đỡ tốt ở một người; sau đó là ác ý và những hành vi xấu xa ở người kia. Giữa hai người này, có một quan hệ đối nghịch. Liệu tội phạm có nằm ở quan hệ đó không? Nhưng giả định một người có ác ý với tôi hay làm điều xấu với tôi; và ngược lại, tôi thờ ơ với người đó, hay làm điều tốt với người đó: Đây chính là quan hệ đối nghịch đó; tuy nhiên, hành vi của tôi thường được ca tụng là rất đáng khen.. Dù có xoay chuyển vấn đề này theo cách nào đi nữa, bạn cũng không bao giờ có thể có thể đặt nền tảng đạo đức trên quan hệ được; cuối cùng ông vẫn phải quay về với những phán quyết của tình cảm.

 

M App1.8, SBN 288

Khi khẳng định rằng hai cộng ba bằng một nửa của mười, thì quan hệ bằng nhau ấy, tôi hiểu một cách hoàn toàn rõ ràng. Tôi hình dung được rằng nếu chia mười thành hai phần sao cho phần này có đúng bằng số đơn vị với phần kia; rồi nếu đem một trong hai phần ấy so sánh với hai cộng ba, thì nó sẽ chứa đúng bằng số đơn vị với tổng số đó. Nhưng khi từ đó bạn rút ra một sự so sánh với những quan hệ đạo đức, thì tôi xin thú nhận rằng tôi hoàn toàn không hiểu bạn nữa. Một hành vi đạo đức, một tội ác, chẳng hạn như sự bội bạc, là một đối tượng phức tạp. Liệu tính đạo đức có nằm ở quan hệ giữa những phần của nó với nhau hay không? Bằng cách nào? Theo kiểu gì? Hãy chỉ rõ quan hệ ấy đi: hãy nói cụ thể hơn, rõ ràng hơn trong những mệnh đề của ông; rồi ông sẽ dễ dàng thấy ngay sự sai lầm của chúng

 

M App1.9, SBN 288-9

Không, bạn nói, đạo đức nằm trong quan hệ giữa những hành động với quy luật của lẽ phải; và chúng được định nghĩa là tốt hay xấu, tùy thuộc vào việc chúng thuận hợp hay không thuận hợp với quy luật đó. Vậy thì quy luật của lẽ phải này là gì? Nó gồm những gì? Nó được xác định như thế nào? Bạn nói, bằng lý trí, lý trí xem xét những quan hệ đạo đức của những hành động. Vậy nên, những quan hệ đạo đức được xác định bằng cách so sánh hành động với một quy luật. Và quy luật đó lại được xác định bằng cách xem xét những quan hệ đạo đức của những đối tượng. Đây quả là một lập luận tài tình, phải không nào?

 

 

M App1.10, SBN 289

Tất cả những điều này chỉ là siêu hình học, bạn kêu lên: Đủ rồi: Không cần gì hơn nữa để đưa ra một giả định mạnh mẽ về sự sai lầm. Vâng, tôi trả lời: Đây chắc chắn là siêu hình học: Nhưng chúng tất cả đều nằm ở phía bạn, những người đưa ra một giả thuyết rối rắm, không bao giờ có thể được hiểu rõ, và cũng không phù hợp với bất kỳ trường hợp hay minh họa cụ thể nào. Còn giả thuyết mà chúng tôi chấp nhận thì rất giản dị. Nó chủ trương rằng đạo đức được xác định bởi tình cảm. Nó định nghĩa đức hạnh là bất kỳ hành động hay phẩm tính tâm lý và đạo đức nào mang lại cho người quan sát tình cảm hài lòng của sự tán thành; và ngược lại là thói hư tật xấu. Sau đó, chúng tôi tiến hành xem xét một vấn đề thực tế rõ ràng, cụ thể là, những hành động nào có ảnh hưởng này: Chúng tôi xem xét tất cả những hoàn cảnh vốn những hành động này phù hợp: Và từ đó cố gắng nêu lên một số nhận xét tổng quát liên quan đến những tình cảm này. Nếu bạn gọi đây là siêu hình học và thấy bất cứ điều gì khó hiểu ở đây, bạn chỉ cần kết luận rằng tính khí trí tuệ của bạn không phù hợp với khoa học đạo đức mà thôi.

 

M App1.11, SBN 289-90

II.

Khi một người, bất cứ lúc nào, cân nhắc về hành vi của chính mình (chẳng hạn như, liệu người này có nên, trong một trường hợp cụ thể, giúp đỡ một người anh em hay một ân nhân hay không), người này phải xem xét những quan hệ riêng biệt này, với tất cả những trường hợp và tình cảnh của những người đó, để xác định bổn phận và nghĩa vụ cao hơn: Và để xác định tỷ lệ những cạnh trong bất kỳ một tam giác nào, cần phải xem xét bản chất của tam giác đó và quan hệ vốn những phần của nó có với nhau. Nhưng mặc dù có vẻ giống nhau trong hai trường hợp này, về cơ bản, giữa chúng vẫn có một sự khác biệt sâu xa, gần như tuyệt đối. Một người lý luận suy diễn về hình tam giác hay hình tròn xem xét những quan hệ đã biết và đã cho của những phần của những hình này; và từ đó suy ra một quan hệ chưa biết nào đó, tùy thuộc vào những quan hệ trước. Nhưng trong những cân nhắc đạo đức, chúng ta phải quen biết trước với tất cả những đối tượng và tất cả những quan hệ của chúng với nhau; và từ một so sánh của toàn bộ, ấn định lựa chọn hay sự chấp thuận của chúng ta. Không có sự kiện mới nào cần xác định: Không có quan hệ mới nào cần tìm ra.

Tất cả những trường hợp của sự việc đều đã được đặt sẵn trước chúng ta, trước khi chúng ta có thể đưa ra bất kỳ phán quyết tán thành hay khiển trách nào. Nếu có bất kỳ sự kiện quan trọng nào vẫn chưa được biết đến hoặc không chắc chắn, trước tiên chúng ta phải điều tra và sử dụng hiểu biết của mình để làm rõ; và mọi quyết định đạo đức hay tình cảm đạo đức đều phải hoãn lại. Khi chưa biết ai là kẻ tấn công trước, làm sao chúng ta có thể phán định, người đã giết người này, là tội phạm hay vô tội được?Nhưng sau mỗi hoàn cảnh, mỗi quan hệ đều đã được biết đến, sự hiểu biết không còn chỗ nào để vận dụng, cũng không còn đối tượng nào để nó có thể tự sử dụng. Sự tán thành hay chỉ trích, sau đó, không thể là công việc của phán đoán, mà là của trái tim; và không phải là một mệnh đề hay khẳng định suy đoán, nhưng là một cảm xúc hay tình cảm chủ động.Trong tiến trình tìm hiểu biết của lý trí, chúng ta suy diễn những kết luận mới mẻ và chưa biết từ những sự kiện và quan hệ đã biết. Tuy nhiên, trong những phán đoán đạo đức, tất cả tất cả những trường hợp và những quan hệ phải được biết trước đầy đủ; và từ việc chiêm nghiệm toàn bộ, cảm nhận một ấn tượng mới củ yêu mến hay ghê tởm, tôn trọng hay khinh miệt, tán thành hay khiển trách.

 

M App1.12, SBN 290-1

Do đó, có sự khác biệt lớn giữa một sai lầm về sự kiện và một sai lầm về đúng-sai đạo đức [2] và do đó, lý do tại sao điều kể trước thường là tội phạm chứ không phải điều kể sau. Khi Œdipus giết cha mình là Laius, Œdipus hoàn toàn không biết quan hệ huyết thống giữa hai người, và do những hoàn cảnh vô tình và không cố ý, đã hình thành những quan điểm sai lầm về hành động vốn đã thực hiện. Nhưng khi Nero giết mẹ mình là Agrippina, mọi quan hệ với nạn nhân, mọi tình tiết của sự việc đều được Nero biết rõ từ trước. Chỉ vì động cơ trả thù, sợ hãi hay lợi ích đã chiến thắng trong trái tim man rợ của bạo chúa này, lấn át hoàn toàn tình cảm bổn phận và nhân tính.

Và khi chúng ta bày tỏ sự căm ghét tột độ đối với Nero – thứ căm ghét mà chính Nero, chỉ một thời gian ngắn sau, cũng trở nên vô cảm – thì không phải vì chúng ta nhìn thấy một quan hệ nào đó mà Nero không hề hay biết; mà là vì, nhờ phẩm chất chính trực trong tâm hồn chúng ta, chúng ta cảm nhận được những tình cảm mà Nero đã trở nên chai lỳ vì lời xu nịnh và vì đã kiên trì phạm những tội ác kinh hoàng nhất suốt thời gian dài. Vậy, mọi phán đoán đạo đức đều nằm ở những tình cảm ấy, chứ không hề nằm trong việc tìm ra ra bất kỳ quan hệ nào. Trước khi chúng ta có thể bắt đầu đưa ra bất kỳ quyết định nào thuộc loại này, Mọi sự vật việc phải được biết rõ và xác định từ phía đối tượng hay hành động. Không còn gì khác ngoài việc cảm nhận, về phía chúng ta, một tình cảm khiển trách hay tán thành; chính từ đó, chúng ta tuyên bố hành động ấy là tội lỗi hay đức hạnh.

 

M App1.13, SBN 291

III.

Học thuyết này sẽ trở nên còn rõ ràng hơn nếu chúng ta so sánh cái đẹp đạo đức với cái đẹp tự nhiên, trong nhiều chi tiết cụ thể, nó có sự tương đồng rất lớn. Tất cả cái đẹp tự nhiên đều tùy thuộc vào tỷ lệ, quan hệ và vị trí của những phần; nhưng sẽ là vô lý để từ đó suy diễn rằng nhận thức về cái đẹp, giống như nhận thức về sự thực trong những bài toán hình học, gồm hoàn toàn trong nhận thức về những quan hệ và được thực hiện hoàn toàn bằng sự hiểu biết hay những khả năng trí tuệ. Trong mọi ngành khoa học, não thức chúng ta, từ những quan hệ đã biết, tìm ra những chưa biết. Nhưng trong mọi quyết định về thị hiếu hay cái đẹp bên ngoài, tất cả những quan hệ đều hiển hiện trước mắt; và từ đó chúng ta tiến hành cảm nhận một cảm xúc thỏa mãn hoặc sự căm ghét, tùy thuộc vào bản chất của đối tượng và sự sắp xếp của những giác quan của chúng ta.

 

M App1.14, SBN 291-2

Euclid đã giải thích đầy đủ mọi phẩm tính của hình tròn; nhưng lại chưa hề nói một lời nào về cái đẹp của nó. Lý do thì hiển nhiên. Cái đẹp không phải là một phẩm tính của hình tròn. Nó không nằm ở bất kỳ phần nào của đường kẻ, vốn những phần của nó đều cách đều một tâm điểm. Cái đẹp chỉ là tác động hình đó tạo ra trên não thức vốn cấu trúc đặc thù của não thức khiến nó có khả năng tiếp nhận những cảm xúc như vậy.. Sẽ là vô ích nếu bạn tìm nó trong hình tròn, hay cố tìm nó, bằng giác quan hay bằng suy luận toán học, trong tất cả những thuộc tính của hình đó.

 

M App1.15, SBN 292

Hãy nghe Palladio và Perrault, khi họ giải thích tất cả những bộ phận và tỷ lệ của một cây cột: Họ nói về phần diềm mái, phần diềm mái, phần đế, phần đầu cột, phần thân và phần khung cửa; và mô tả và vị trí của từng bộ phận này. Nhưng nếu bạn hỏi về mô tả và vị trí của cái đẹp, họ sẽ sẵn sàng trả lời rằng cái đẹp không nằm ở bất kỳ bộ phận hay chi tiết nào của cây cột, nhưng là kết quả của tổng thể, khi hình khối phức tạp đó được trình bày trước một trí tuệ thông minh, nhạy bén với những cảm nhận tế nhị hơn. “Cho đến khi một khán giả như vậy xuất hiện, thì chỉ có một hình khối với kích thước và tỷ lệ đặc biệt như vậy: Chỉ từ cảm xúc của người đó, cái đẹp và sự thanh lịch của nó mới nảy sinh.

 

M App1.16, SBN 292-3

Lại nữa; hãy chú ý đến Cicero, khi ông mô tả những tội ác của một Verres hay một Catiline. Bạn phải nhìn nhận rằng sự đồi bại về đạo đức cũng nảy sinh theo cùng một cách, từ sự chiêm nghiệm toàn bộ sự việc, khi được trình bày với một sinh vật có những cơ quan có một cấu trúc và hình thành đặc biệt như vậy. Nhà hùng biện có thể mô tả sự giận dữ, sự xấc xược, sự man rợ ở một bên: sự ôn hòa, sự đau khổ, sự buồn bã, sự vô tội ở bên kia: Nhưng nếu bạn không cảm thấy phẫn nộ hay thương cảm nào nảy sinh trong bạn từ sự phức tạp của hoàn cảnh này, sẽ vô ích khi bạn hỏi ông ấy, tội ác hay sự đê tiện vốn ông ấy kịch liệt lên án gồm những gì: Nó bắt đầu tồn tại vào thời điểm nào, hoặc trong đối tượng nào: Và điều gì đã xảy ra với nó vài tháng sau đó, khi mọi xu hướng và suy nghĩ của tất cả những nhân vật đã hoàn toàn thay đổi hoặc biến mất. Không thể đưa ra trả lời thỏa đáng cho bất kỳ câu hỏi nào trong số này, dựa trên giả thuyết trừu tượng về đạo đức; và cuối cùng chúng ta phải nhìn nhận rằng tội ác hoặc sự vô đạo đức không phải là một sự kiện hoặc quan hệ cụ thể nào vốn có thể là đối tượng của sự hiểu biết lý trí: Nhưng hoàn toàn nảy sinh từ cảm xúc không tán thành, vốn theo cấu trúc của bản chất con người, chúng ta không thể tránh khỏi khi nhận biết được sự dã man hoặc sự phản bội.

 

M App1.17, SBN 293

IV.

Những vật vô tri vô giác có thể mang trong mình tất cả những quan hệ tương tự, vốn chúng ta thấy ở các tác nhân đạo đức; mặc dù những vật vô tri vô giác không bao giờ có thể là đối tượng của tình yêu hay thù hận, và do đó và do đó cũng không thể có phẩm hạnh hay tội lỗi. Một cây non mọc vượt trùm lên cao và hủy hoại cây mẹ, cũng có tất cả những quan hệ tương tự như Nero, khi ông giết Agrippina; và nếu đạo đức chỉ đơn thuần nằm ở những quan hệ, thì chắc chắn cây non đó cũng có tội ác ngang bằng.

 

M App1.18, SBN 293

V.

Rõ ràng là những mục đích cuối cùng của những hành động con người không bao giờ có thể được giải thích bằng lý trí trong bất kỳ trường hợp nào, nhưng hoàn toàn tự khuyến nghị bằng cảm xúc và tình cảm của loài người, không hề tùy thuộc vào bất kỳ năng lực trí tuệ nào. Hãy hỏi một người tại sao người này tập thể dục; người này sẽ trả lời, vì người này muốn giữ sức khỏe. Nếu bạn hỏi tại sao người này muốn giữ sức khỏe, người này sẽ sẵn sàng trả lời, vì bệnh tật là đau đớn. Nếu bạn đẩy những câu hỏi thêm xa hơn, và muốn tìm một lý do tại sao người này ghét đau đớn, không thể nào người này đưa ra được lý do nào. Đây là một mục đích cuối cùng, và không bao giờ được viện dẫn đến bất kỳ đối tượng nào khác. [3]

 

M App1.19, SBN 293

Có lẽ, với câu hỏi thứ hai của bạn, tại sao người này mong muốn có sức khỏe, người này cũng có thể trả lời rằng điều đó cần thiết cho công ăn việc làm của người này. Nếu bạn hỏi tại sao người này lại lo lắng về điều đó, người này sẽ trả lời, vì người này muốn kiếm tiền. Nếu bạn hỏi Tại sao? Người này nói rằng Tiền là phương tiện dùng để có hoặc tạo vui sướng Và sau điểm này, việc tiếp tục hỏi thêm lý do là điều phi lý. Không thể nào chuỗi câu hỏi lý do này kéo dài đến vô tận, khi mỗi mong muốn chỉ được giải thích bằng một mong muốn khác. Phải có một gì đó đáng mong muốn vì chính bản thân nó, và vì sự phù hợp hoặc đồng thuận trực tiếp với tình cảm và cảm xúc của con người. [4]

 

M App1.20, SBN 293-4

Giờ đây, vì đức hạnh là một mục đích, và đáng mong muốn vì chính bản thân nó, không cần thù lao hay phần thưởng, mà chỉ đơn thuần vì sự thỏa mãn tức thời mà nó mang lại; nên điều cần thiết là phải có một cảm xúc (sentiment) mà đức hạnh chạm tới; một thị hiếu hoặc cảm giác nội tại (internal taste or feeling), hay bất cứ điều gì bạn muốn gọi, để phân biệt thiện và ác về đạo đức, và để ôm lấy cái này và từ chối cái kia.

 

M App1.21, SBN 294

Như vậy, ranh giới và chức năng riêng biệt của lý tríthị hiếu dễ dàng được xác định. Lý trí truyền tải kiến thức về sự thực và sự sai lầm: Thị hiếu mang đến cảm nhận về cái đẹp và sự dị hình xấu xí, thói hư tật xấu và đức hạnh. Cái này tìm ra những đối tượng như chúng thực sự hiện hữu trong tự nhiên, không thêm bớt. Cái kia có năng lực sinh sản, và việc dát vàng hay nhuộm màu tất cả những đối tượng tự nhiên bằng màu sắc vay mượn từ cảm xúc nội tâm, theo một cách nào đó, tạo ra một sự sáng tạo mới. Lý trí, vốn lạnh lùng và tách biệt, không phải là động lực cho hành động, vốn chỉ dẫn dắt sự thôi thúc nhận được từ ham muốn hay khuynh hướng, bằng cách cho chúng ta thấy phương tiện đạt được hạnh phúc hay tránh khỏi đau khổ: Thị hiếu, vì nó mang lại khoái cảm hay đau khổ, và do đó tạo nên hạnh phúc hay đau khổ, trở thành động lực cho hành động, và là nguồn suối hoặc xung lực đầu tiên cho mong muốn và ý chí. Từ những hoàn cảnh và quan hệ, dù đã biết hay chưa biết, cái trước dẫn ta đến tìm ra những điều ẩn giấu và chưa biết: Sau khi tất cả hoàn cảnh và quan hệ được đặt ra trước mắt, cái sau khiến ta cảm nhận từ tổng thể một cảm xúc mới về sự khiển trách hay tán thành. Tiêu chuẩn của cái trước (lý trí), được thành lập dựa trên bản chất của sự vật, là vĩnh cửu và bất di bất dịch, ngay cả bởi ý chí của Đấng Tối cao. Tiêu chuẩn của cái sau (thị hiếu), nảy sinh từ khung nội tại và cấu tạo của các sinh vật, cuối cùng được bắt nguồn từ Ý chí Tối cao đã ban tặng cho mỗi sinh vật bản chất đặc thù của nó, và sắp xếp những lớp và những trật tự của hiện hữu khác nhau.

 

------------------------------------------------------------

 

M App1.1n58, SBN 285

22.    Mục I.

 

M App1.2n59, SBN 285

23.    Xem Phụ lục III.

 

 

 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(May/2025)

(Còn tiếp... )

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 



[1] ingratitude

[2] sự khác biệt giữa “ignorantia facti” và “ignorantia iuris”. nhầm lẫn về sự kiện và nhầm lẫn về đúng-sai đạo đức.

[3] Đoạn văn này là một trong những giải thích rõ ràng và dễ tiếp cận nhất của Hume về luận điểm của ông rằng lý trí là nô lệ của cảm xúc (reason is the slave of the passions) và ý chí (volition) cuối cùng được thúc đẩy bởi cảm xúc (sentiment) chứ không phải lý trí (reason).

[4] Ở đây, Lý trí chỉ là phương tiện và Cảm xúc là mục đích tối hậu.