(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)
David Hume
MỤC VIII.
Những Phẩm Tính Trực Tiếp Làm Người Khác Dễ Chịu [50].
M 8.1, SBN 261
Vì những xung đột và
lợi ích đối lập của tình cảm vị kỷ trong xã hội đã buộc loài người phải thiết
lập những luật lệ về công bằng; để bảo tồn những lợi ích của sự giúp đỡ
và bảo vệ lẫn nhau: Tương tự như vậy, những xung đột liên tục giữa lòng kiêu
hãnh và sự tự phụ của con người, đã dẫn đến sự ra đời của những quy luật ỨNG XỬ
TỐT ĐẸP hay PHÉP LỊCH SỰ; để làm dễ dàng sự trao đổi những suy nghĩ, và một trò
chuyện dễ chịu không tranh cãi hay không tổn thương lòng tự trọng. Giữa những
người người quen thuộc với phép lịch sự và phong thái nhã nhặn, người ta nhận
thấy sự tôn trọng lẫn nhau: sự khinh thường người khác được che giấu, quyền lực
được giữ kín, mỗi người đến lượt đều được lắng nghe, và trò chuyện diễn ra
suông sẻ, không gay gắt, gián đoạn, háo hức muốn thắng thế, hay bất kỳ biểu hiện
nào của tự cao tự đại. Những cử chỉ quan tâm và sự tôn trọng này ngay lập tức
làm hài lòng người khác, bất kể lợi ích hay ưu điểm nào khác: chúng tạo nên
tình cảm yêu mến, nuôi dưỡng lòng kính trọng và làm tăng thêm giá trị của người
biết cư xử theo những nguyên tắc này.
M 8.2, SBN 262
Nhiều hình thức lịch
sự mang tính tùy tiện và ngẫu nhiên; tuy nhiên, tình cảm vốn chúng thể hiện vẫn
không thay đổi.. Một người nước Spain ra khỏi nhà trước khách, để thể hiện rằng
mình để khách làm chủ tất cả. Ở những nước khác, chủ nhà lại đi ra sau cùng,
như một dấu hiệu thể hiện sự tôn trọng và chu đáo.
M 8.3, SBN 262
Nhưng, để trở thành một
người đồng hành toàn hảo, một người cần phải có sự thông minh và khéo léo, cũng
như phong thái lịch sự. Trí thông minh là gì, có thể không dễ định nghĩa; nhưng
chắc chắn dễ dàng nhận thấy rằng đó là một phẩm tính tinh thần sống động và
sáng tạo, được người khác chấp nhận ngay lập tức, và ngay từ cái nhìn đầu tiên,
nó đã mang lại vui sướng và sự hài lòng sống động cho bất kỳ ai có khả năng cảm
nhận được nó. Thật vậy, người ta có thể dùng những lý thuyết siêu hình học sâu xa
nhất để phân loại nhiều loại trí tuệ khác nhau, và một số hình thức hiện được
chấp nhận chỉ dựa trên bằng chứng của thị hiếu và tình cảm, có lẽ có thể được
phân tích thành những nguyên lý tổng quát hơn. Tuy nhiên, đối với mục đích hiện
tại của chúng ta, chỉ cần lưu ý rằng trí thông minh ảnh hưởng đến thị hiếu và cảm
xúc, và bằng cách mang lại niềm vui tức thì, nó trở thành một nguồn chắc chắn để
nhận được sự tán thành và yêu mến.
M 8.4, SBN 262
Trong những đất nước
vốn mọi người dành phần lớn thời giờ của họ để trò chuyện, thăm hỏi và hội họp
xã hội, những phẩm chất hòa đồng hoặc dễ gần này – như sự dí dỏm, lịch sự và
quyến rũ – được đánh giá cao và được coi là một phần quan trọng trong giá trị
cá nhân của một người. Ở những quốc gia vốn con người sống đời sống riêng tư hoặc
gia đình hơn, dành thời gian cho công việc kinh doanh hoặc giao du với một nhóm
quen biết nhỏ, những phẩm chất cốt lõi hơn thường được coi trọng.Vì vậy, tôi
thường nhận thấy rằng người Pháp thường hỏi người lạ những câu hỏi đầu tiên
như: Anh ta có lịch sự không? Anh ta có thông minh và hài hước không?
Nhưng ở đất nước chúng ta, lời khen ngợi lớn nhất luôn là dành cho một người tốt
bụng, hiểu biết.
M 8.5, SBN 262-3
Trong trò chuyện, sự
trao đổi sôi nổi, linh hoạt mang lại dễ chịu thích thú, ngay cả với những
người không muốn tham dự vào trò chuyện: Do đó, người kể chuyện dài dòng, hay
người tự cao khoa trương, rất ít được ưa chuộng. Nhưng hầu hết mọi người cũng
mong muốn được lần lượt phát biểu, và nhìn với con mắt rất ác cảm, sự lắm lời,
điều này tước đi cơ hội được nói của họ, điều mà họ thường giữ gìn với lòng ghen
tị lớn lao.
M 8.6, SBN 263
Có một loại của những
kẻ nói dối vô hại, thường gặp trong những tụ họp, thích kể những chuyện
kỳ lạ. những người thích thú với việc kể những câu chuyện kỳ lạ kinh ngạc. Mục
đích thông thường của họ là làm vui lòng và giải trí; nhưng vì con người rất
thích thú với những gì họ cho là sự thực, nên những người này cực kỳ nhầm lẫn trong
phương tiện để làm vui lòng người khác, và vì thế phải hứng chịu sự chỉ trích từ
mọi người. Tuy nhiên, đôi khi trong những câu chuyện hài hước vẫn có sự
dung túng cho dối trá hay hư cấu; vì ở đó, chúng thực sự dễ chịu và thú vị; còn
sự thực thì không mấy quan trọng.
M 8.7, SBN 263
Tài hùng biện, mọi loại
tài năng đặc biệt, ngay cả lý trí và lập luận sắc bén – khi được phát huy đến mức
cao nhất và áp dụng vào những vấn đề trang trọng và sự phán đoán tinh tế – đều
dễ chịu ngay lập tức, và có một giá trị khác biệt so với ứng dụng thực tế của
chúng. Sự hiếm có, vốn làm tăng giá trị của mọi sự vật việc, cũng phải càng làm
tăng thêm sự trân trọng đối với những tài năng cao quý này của trí tuệ con người.
M 8.8, SBN 263-4
Sự khiêm tốn có thể
được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả tách rời khỏi khỏi tiết hạnh, vốn
đã được đề cập ở trên. Đôi khi nó có nghĩa là sự dịu dàng và tế nhị của danh dự,
nỗi e ngại bị khiển trách, nỗi sợ bị xâm phạm hay làm tổn thương người khác, tức
là Pudor, người bảo vệ đúng đắn cho mọi loại đức hạnh, và là chất bảo vệ
chắc chắn chống lại thói hư tật xấu và sự tha hóa. Nhưng ý nghĩa thông thường
nhất của nó là khi nó đối lập với sự trơ tráo và kiêu ngạo, thể hiện sự thiếu tự
tin vào phán đoán của chính mình, và sự quan tâm và tôn trọng đúng mức với người
khác. Chủ yếu ở những người trẻ tuổi, phẩm tính này là một dấu hiệu chắc chắn của
sự sáng suốt; và cũng là phương tiện chắc chắn để tăng cường năng khiếu đó, bằng
cách giữ cho tai nghe của họ luôn mở rộng để tiếp nhận sự hướng dẫn và khiến họ
tiếp tục theo đuổi những thành tựu mới. Nhưng nó còn có một sức hấp dẫn hơn với
mọi người quan sát; bằng cách tâng bốc lòng tự phụ của mọi con người và thể hiện
vẻ ngoài của một học trò ngoan ngoãn, người tiếp nhận, với sự chú ý và tôn trọng
đúng mực, từng lời họ thốt ra.
M 8.9, SBN 264
Nhìn chung, con người
có một khuynh hướng lớn hơn để đánh giá cao bản thân hơn là đánh giá thấp bản
thân; bất chấp quan điểm của Aristotle [51]. [1]
Sự thiên vị tự nhiên này khiến chúng ta đặc biệt cảnh giác với thái độ tự cao
quá mức, và vì thế, chúng ta thường ưa thích sự khiêm tốn và dè dặt—bởi nguy cơ
quá đà trong khiêm tốn hầu như không đáng kể. Vì vậy, ở những quốc gia mà cơ thể
con người thường có xu hướng to béo, cái đẹp cá nhân được đặt ở mức độ mảnh mai
hơn nhiều so với những quốc gia vốn đó là khuyết điểm thường gặp nhất. Thường
xuyên gặp phải những trường hợp dị hình xấu xí, con người nghĩ rằng họ không
bao giờ có thể giữ khoảng cách quá xa với nó và luôn muốn nghiêng về phía đối lập.
Tương tự như vậy, nếu mọi người được tự do ca ngợi bản thân, theo câu châm ngôn
của Montaigne rằng người ta nên công khai nói rằng, " tôi có ý thức,
tôi có học thức, tôi có lòng can đảm, cái đẹp hay trí thông minh; vì chắc
chắn chúng ta thường nghĩ như vậy; mọi người đều có thể thấy rằng một dòng lũ tự
phụ như vậy sẽ nhấn chìm chúng ta và khiến xã hội hoàn toàn không thể chịu đựng
được.Vì lý do này, phong tục đã thiết lập như một quy luật trong đời sống xã hội
thông thường rằng người ta không nên tự khen ngợi bản thân hoặc nói nhiều về bản
thân. Chỉ giữa những người bạn thân thiết, hoặc với những người thực sự nam
tính hoặc tự tin, thì việc tự khen ngợi bản thân mới được chấp nhận. Ngay cả
khi đó, việc thể hiện lòng tự trọng vẫn an toàn hơn nếu được thể hiện gián tiếp.
Không ai chỉ trích Maurice, Hoàng tử xứ Orange, vì câu trả lời của ông cho câu
hỏi về việc ai là vị tướng vĩ đại nhất thời đại: "Hầu tước Spinola",
ông nói, "là người thứ hai". Ở đây, Maurice ngầm ám chỉ sự xuất sắc của
bản thân mà không hề khoe khoang trực tiếp. Điều đáng chú ý là lời tự khen gián
tiếp này dễ chấp nhận và dễ chịu hơn nhiều so với việc ông công khai tuyên bố sự
vượt trội của mình mà không hề che giấu hay che đậy.[2]
M 8.10, SBN 264-5
Người này phải là một
nhà tư tưởng rất hời hợt, người tưởng tượng rằng mọi trường hợp tôn trọng lẫn
nhau đều được hiểu một cách nghiêm trang, và rằng một người sẽ đáng kính hơn
khi không biết về công lao và thành tích của chính mình. Một chút khiêm tốn,
ngay cả trong cảm xúc nội tâm, cũng được ước định cao, đặc biệt là ở những người
trẻ tuổi; và một sự thiên vị mạnh mẽ là cần thiết, trong hành vi bên ngoài:
Nhưng điều này không loại trừ lòng tự hào và tinh thần cao quý, có thể bộc lộ
rõ ràng ở mức độ đầy đủ của nó, khi một người phải chịu bất kỳ sự vu khống hay
áp bức nào. Sự hào hiệp ngoan cố của Socrates, như Cicero gọi, đã được ca ngợi
hết lời trong mọi thời đại; và khi kết hợp với sự khiêm tốn thường thấy trong
hành vi của ông, tạo nên một nhân cách tỏa sáng. Iphicrates, người Athenss, bị
buộc tội phản bội những quyền lợi của đất nước, đã hỏi người buộc tội ông, Và
liệu ông có thể tưởng tượng được không, người anh hùng kêu lên, rằng
Iphicrates sẽ phạm tội? [52] . Tóm lại, một tinh thần hào hiệp và lòng tự
trọng, được xây dựng vững chắc, được che đậy một cách khéo léo, và được nâng đỡ
một cách can đảm trong đau khổ và bị vu khống, là một phẩm tính tuyệt vời, và
dường như có được giá trị từ sự cao quý của tình cảm, hay sự dễ chịu ngay lập tức
với chính người có nó. Trong những nhân cách bình thường, chúng ta tán thành sự
thiên vị về đức hạnh khiêm tốn, một phẩm tính dễ được người khác chấp nhận ngay
lập tức: Sự thái quá của đức hạnh trước, tức là sự xấc xược hay kiêu ngạo, ngay
lập tức gây khó chịu cho người khác: Sự thái quá của đức hạnh sau cũng gây khó
chịu cho người sở hữu. Như vậy, ranh giới của những bổn phận này được điều chỉnh.
M 8.11, SBN 265-6
Một khao khát danh vọng,
tiếng tăm, hay một địa vị với người khác, không hề quá đáng chê trách, vốn nó dường
như gắn liền với đức hạnh, thiên tài, năng lực, và một tính cách hào hiệp hay
cao thượng. Xã hội cũng kỳ vọng và đòi hỏi sự quan tâm ngay cả đến những chuyện
nhỏ nhặt để làm vui lòng người khác; và chẳng ai ngạc nhiên khi thấy một người
trong khi ở bên cạnh nững người khác, ăn mặc lịch sự hơn, nói năng duyên dáng
và sôi nổi hơn so với khi ở nhà với gia đình. Vậy thì, Vậy thì, HÃNH DIỆN , những
gì được coi là một khuyết điểm hay một sự thiếu sót, nằm ở đâu? Dường như nó chủ
yếu nằm ở việc phô trương quá mức và phô trương những lợi thế, danh dự hay
thành tựu của một người – ở sự khao khát được khen ngợi và ngưỡng mộ một cách
thiếu kiên nhẫn, phiền phức, khiến người khác khó chịu và xâm phạm quá mức lòng
kiêu hãnh và tham vọng thầm kín của chính họ. Sự hãnh diện cũng là một dấu hiệu
rõ ràng của việc thiếu phẩm giá thực sự và sự cao thượng, vốn là một trong những
nét trang trí đẹp nhất của nhân cách. Tại sao người ta lại quá háo hức được
khen ngợi, như thể mình không xứng đáng được khen ngợi, hoặc không thể mong đợi
một cách hợp lý rằng nó sẽ đến đúng lúc? Tại sao lại vội vàng kể cho chúng ta nghe
về những người bạn đáng kính mà bạn đã kết giao, những lời tâng bốc mà bạn được
nghe, hay những danh dự và ân huệ mà bạn đã nhận được – như thể đây không phải
là kết quả tự nhiên của công lao bạn, như thể đó không phải là những điều hiển
nhiên, và là những điều chúng ta có thể dễ dàng hình dung ra không cần ai nói
cho chúng ta biết? [3]
M 8.12, SBN 266
SỰ ĐOAN TRANG, hay sự
tôn trọng đúng mực với tuổi tác, giới tính, nhân cách và địa vị xã hội, có thể
được xếp vào hàng những phẩm tính dễ được người khác chấp nhận ngay lập tức, và
nhờ đó, nhận được lời khen ngợi và sự tán thành. Khi một người nam cư xử quá nhu
nhược, hoặc một người nữ cư xử quá thô lỗ hoặc cục cằn, những điều này thật xấu
xí vì không phù hợp với từng nhân cách, và khác với những phẩm tính vốn chúng
ta mong đợi ở hai giới. Giống như một bi kịch lại đầy những nét hài hước, hay một
hài kịch lại mang đậm màu bi kịch, sự không phù hợp này làm mất đi sự hài hòa
trong cảm nhận của chúng ta, tạo ra một loại cảm giác khó chịu về mặt thẩm mỹ dẫn
đến sự chỉ trích và phản đối. Đây chính là sự thiếu đoan trang, không
đúng mực đã được Cicero thảo luận rất kỹ lưỡng trong De Officiis của
ông. [4]
M 8.13, SBN 266-7
Trong số những đức hạnh
khác, chúng ta cũng có thể dành cho SỰ SẠCH SẼ một vị trí; vì nó tự nhiên khiến
chúng ta dễ chịu với người khác, và là nguồn gốc không hề nhỏ của tình yêu
thương và sự trìu mến. Không ai có thể phủ nhận rằng sự lơ là trong trường hợp
này là một lỗi lầm; và vì lỗi lầm chỉ là những tật xấu nhỏ nhặt, và lỗi lầm này
không thể có nguồn gốc nào khác ngoài cảm giác bất an vốn nó khơi dậy ở người
khác; trong trường hợp này, ngay cả trong một ví dụ tưởng chừng như tầm thường
– chúng ta có thể tìm ra rõ ràng nguồn gốc thực sự của những khác biệt về đạo đức,
mà những học giả đã vướng vào những mê cung của sự bối rối và sai lầm.
M 8.14, SBN 267
Nhưng bên cạnh tất cả
những phẩm tính dễ chịu, vốn nguồn gốc cái đẹp của chúng, chúng ta có thể,
ở một mức độ nào đó, giải thích và cho thấy lý do, vẫn còn một gì đó bí ẩn và không
giải thích được, vốn mang đến sự thỏa mãn tức thì cho người xem, nhưng bằng
cách nào, tại sao, hay vì lý do gì, thì người này không thể cho rằng có thể giải
thích hay định rõ được. Có một PHONG CÁCH, một sự duyên dáng, một sự thoải mái,
một sự lịch thiệp, một gì đó vốn tôi không biết là gì, vốn một số con người sở
hữu hơn những người khác. Nó rất khác với cái đẹp và sự duyên dáng bên ngoài,
và tuy nhiên, nó lại chiếm được tình cảm của chúng ta một cách đột ngột và mạnh
mẽ. Và mặc dù phong cách này chủ yếu được nói đến trong tình yêu giữa hai giới,
nơi vốn quyến rũ tiềm ẩn của nó có thể dễ dàng được giải thích hơn, nhưng chắc
chắn phần lớn nó chiếm ưu thế trong mọi ước định của chúng ta về tính cách, và
tạo thành một phần không nhỏ trong giá trị cá nhân. Do đó, loại thành tựu này
phải được hoàn toàn tin tưởng vào chứng cớ mù quáng nhưng chắc chắn của thị hiếu
và tình cảm; và phải được xem như một phần của đạo đức, được tự nhiên bỏ lại để
đánh bại mọi kiêu hãnh của triết học, và khiến nó cảm nhận được những ranh giới
hạn hẹp và những thành tựu mong manh của nó.
M 8.15, SBN 267
Chúng ta chấp nhận một
người khác, vì sự dí dỏm, lịch sự, khiêm tốn, đoan trang, hay bất kỳ phẩm tính
dễ chịu nào vốn người đó sở hữu; mặc dù người đó không phải là người quen biết
của chúng ta, và cũng chưa bao giờ mang lại cho chúng ta bất kỳ thích thú nào nhờ
những thành tựu này. Ý niệm vốn chúng ta hình thành về ảnh hưởng của chúng với
người quen của người đó có một ảnh hưởng dễ chịu đến trí tưởng tượng của chúng
ta, và mang lại cho chúng ta cảm giác chấp nhận. Nguyên lý này đi vào tất cả những
ước định vốn chúng ta hình thành về cách cư xử và tính cách.
------------------------------------------------------
M 8.n50, SBN 261
22. Chính bản chất – và thực sự là định nghĩa – của đức hạnh là một phẩm chất của não thức làm hài lòng hoặc được tất cả những ai suy ngẫm về nó chấp nhận. Tuy nhiên, nguồn gốc của niềm vui này không phải lúc nào cũng giống nhau: một số đức tính được chấp nhận vì chúng hữu ích – cho toàn xã hội hoặc cho cá nhân sở hữu chúng – trong khi những đức tính khác làm chúng ta hài lòng ngay lập tức, bởi chính vẻ ngoài và tính cách của chúng. Đây chính là loại đức hạnh mà chúng ta đang xem xét ở đây.
M 8.9n51, SBN 264
23. Ethic. ad Nicomachum.
M 8.10n52, SBN 265
24. Quinctil. lib. v. cap. 12.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ
nhất
(May/2025)
(Còn tiếp... →)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Nhiều người thường hiểu rằng Aristotle cho rằng
con người có xu hướng tự hạ thấp mình hơn là tự đánh giá quá cao, đặc biệt
trong những vấn đề đạo đức và trí thức. Tuy nhiên, trong tác phẩm Đạo đức học
Nicomachean (quyển 4, đoạn 1125a21-28), Aristotle thực ra chỉ ra rằng cả những
người quá khiêm tốn lẫn những kẻ kiêu ngạo đều không thực sự hiểu rõ bản thân.
Ông không khẳng định con người tự nhiên hay hạ thấp mình, mà nhấn mạnh rằng cả
hai thái cực đều phản ảnh sự thiếu tự nhận thức. Ngược lại, Hume lại quan sát
thấy rằng, nói chung, con người thường tự đánh giá mình quá cao hơn là hạ thấp
bản thân.
[2] Maurice, Hoàng tử xứ Orange (1567–1625), được hỏi ai là
vị tướng vĩ đại nhất thời đại của mình. Ông trả lời, "Hầu tước Spinola là
người thứ hai", ngầm ám chỉ sự vượt trội của bản thân mà không hề khoe
khoang công khai. Câu chuyện này được David Hume trích dẫn để minh họa; nguồn sử
liệu và niên đại chính xác vẫn chưa được xác định. Nó cho thấy việc tự khen
gián tiếp được xã hội chấp nhận như thế nào.
[3] Theo Hume, hãnh
diện (vanity) là ham muốn quá mức được ngưỡng mộ hoặc khen ngợi, thường thể hiện
qua việc phô trương công trạng, danh dự hoặc ưu thế của mình một cách lộ liễu. Đây
không phải là niềm tự hào lành mạnh hay lòng tự trọng. Đối với Hume, hãnh diện
trở thành khuyết điểm khi một người: (a) Luôn tìm kiếm sự công nhận từ người
khác, (b) Không kiềm chế được ham muốn khoe khoang thành tích, (c) Và làm phiền
lòng người khác bằng thái độ tự cho mình vượt trội. Tóm lại, hãnh diện = sự phô
trương bản thân xuất phát từ khát khao nóng vội được ngưỡng mộ, bộc lộ sự thiếu
vắng phẩm giá thực sự và lòng tự tin bên trong.
[4] De Officiis là một tác phẩm triết
học của Marcus Tullius Cicero (106–43BCE) về nghĩa vụ đạo đức, đạo đức học và
cách cư xử đúng đắn.
