Sunday, November 2, 2025

Hume – Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức (09)

Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức

(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)

 David Hume

 ( ← ... tiếp theo )




MỤC VII.

Về Những Phẩm Tính Trực Tiếp Làm Chúng Ta Dễ Chịu

 

M 7.1, SBN 250

Ai là người đã từng trải qua một buổi tối với những người trầm ngâm u sầu, và đã nhận thấy trò chuyện bỗng trở nên sôi nổi như thế nào, và sự hoạt bát lan tỏa trên gương mặt, lời nói và hành vi của mọi người ra sao, khi có sự xuất hiện của một người bạn đồng hành ý nhị hóm hỉnh, hoạt bát; người như vậy sẽ dễ dàng công nhận rằng SỰ VUI VẺ mang trong mình công lao to lớn, và tự nhiên hòa giải được thiện chí của loài người. Thực vậy, không có phẩm tính nào dễ dàng truyền đạt đến mọi người xung quanh hơn thế; vì không có phẩm tính nào khác có một khuynh hướng tự thể hiện nhiều hơn, trong những trò chuyện vui vẻ và những giải trí thú vị. Ngọn lửa lan tỏa khắp xung quanh; và những người ủ rũ và buồn bã nhất thường bị cuốn vào nó. Tôi thấy khó chấp nhận được, rằng những người u sầu ghét sự vui vẻ, mặc dù Horace đã nói vậy; vì tôi luôn nhận thấy rằng, khi sự vui vẻ ở mức độ vừa phải và đúng mực, những người trầm ngâm u sầu càng vui vẻ hơn, vì nó xua tan đi sự u ám vốn họ thường bị đè nén, và mang lại cho họ một vui thích khác thường.

 

M 7.2, SBN 250-1

Từ ảnh hưởng này của sự vui vẻ này, cả trong tự truyền đạt và thu hút chấp thuận, chúng ta có thể nhận thấy rằng có một tập hợp khác gồm những phẩm tính tâm lý khác, vốn không có bất kỳ hữu ích hay khuynh hướng nào để mang lại điều tốt đẹp hơn, cho cả cộng đồng hay người sở hữu, vốn lan tỏa sự hài lòng đến người nhìn, và tạo ra tình thân thiện và sự tôn trọng. Cảm giác trực tiếp của chúng, với người sở hữu chúng, là dễ chịu: Những người khác bước vào cùng một tâm trạng, và nắm bắt được tình cảm, bằng sự lây lan hay sự đồng cảm tự nhiên: Và vì chúng ta không thể cưỡng lại việc yêu bất cứ gì mình thích, nên một cảm xúc tốt đẹp nảy sinh đối với người mang lại nhiều sự hài lòng đến vậy. Người ấy là một cảnh tượng sống động hơn: Sự hiện diện của người ấy lan tỏa đến chúng ta một cảm giác thanh thản, hài lòng và vui thích hơn: Trí tưởng tượng của chúng ta, khi thấu hiểu cảm xúc và tính cách của người ấy, sẽ bị ảnh hưởng một cách dễ chịu hơn so với khi phải đối diện với một tâm trạng u sầu, chán nản, cau có hoặc lo âu. Từ đó mà nảy sinh tình cảm và sự tán thưởng dành cho người trước; còn sự ghét bỏ và khó chịu thì dành cho người sau. [35].

 

M 7.3, SBN 251-2

Ít người nào sẽ ghen tị với nhân cách vốn Caesar dành cho Cassius.

Hắn không thích chơi đùa,

Như ngươi vậy, Anthony: Hắn không nghe thấy âm nhạc:

Hiếm khi hắn mỉm cười; và mỉm cười theo kiểu đó,

Như thể hắn tự chế giễu và khinh miệt tinh thần của mình

Đến mức có thể khiến người ta mỉm cười trước bất cứ điều gì. [1]

 

Những người như vậy, như Caesar đã lưu ý, không chỉ thường nguy hiểm, nhưng bởi vì họ ít vui hưởng đời sống, họ hiếm khi trở nên dễ chịu với người khác hoặc đóng góp cho vui thích xã hội. Trong mọi xã hội và thời đại lịch sự, sở thích giải trí – khi cân bằng với sự điều độ và đứng đắn – được coi là một đức tính quan trọng, ngay cả ở những người vĩ đại nhất, và càng trở nên quan trọng hơn đối với những người có địa vị hoặc tính cách thấp kém hơn. Một nhà văn người Pháp mô tả cách tiếp cận của riêng mình đối với sự cân bằng này: “Tôi yêu đức hạnh mà không khắc khổ; lạc thú mà không nhu nhược; và đời sống mà không sợ chấm dứt của nó. [36].

 

M 7.4, SBN 252

Ai không bị ấn tượng bởi bất kỳ ví dụ điển hình nào về TRÍ TUỆ VĨ ĐẠI hay Nhân cách Cao quý; với sự nâng cao tình cảm, sự khinh miệt chế độ nô lệ, và với lòng kiêu hãnh và tinh thần cao quý, xuất phát từ đức hạnh có ý thức? Longinus nói, sự cao cả thường chẳng qua chỉ là tiếng vọng hay hình ảnh của lòng độ lượng; và khi phẩm chất này xuất hiện ở bất kỳ ai, dù chỉ một âm tiết, nó cũng khơi dậy sự tán thưởng và ngưỡng mộ của chúng ta; như có thể thấy trong sự im lặng nổi tiếng của Ajax trong Odyssey, thể hiện sự khinh miệt cao quý và sự phẫn nộ kiên quyết hơn bất kỳ ngôn ngữ nào có thể truyền tải. [37].

 

M 7.5, SBN 252

Nếu ta là Alexander, Parmenio nói, ta sẽ chấp nhận những lời đề nghị này của Darius. Alexander đáp, ta cũng sẽ chấp nhận nếu ta là Parmenio. Câu nói này thật đáng ngưỡng mộ, Longinus nói, xuất phát từ một nguyên lý tương tự [38].

 

M 7.6, SBN 252

“Đi đi!”, người anh hùng ấy đã hét lên với binh lính của mình, khi họ từ chối theo ông đến India, "Hãy đi nói với đồng bào của người rằng ngươi đã bỏ Alexander trong việc hoàn thành cuộc chinh phục thế giới.". Hoàng tử xứ Condé nói, người luôn ngưỡng mộ đoạn văn này, Alexander bị binh lính bỏ rơi, giữa những dân man rợ, vẫn chưa hoàn toàn bị khuất phục, cảm thấy trong mình một phẩm giá và quyền lực của đế quốc đến mức ông không thể tin rằng một ai đó lại từ chối tuân lệnh ông. Dù ở châu Âu hay châu Á, giữa người Greece hay người Persia, tất cả đều thờ ơ với ông: Bất cứ nơi nào ông tìm thấy con người, ông đều tưởng tượng rằng ông sẽ tìm thấy thần dân. [2]

 

M 7.7, SBN 252-3

Trong vở bi kịch, người tâm phúc của Medea khuyên bà nên thận trọng và nhún nhường, đồng thời nhắc nhở bà về tất cả những bất hạnh đã giáng xuống đầu bà. Ông nói rằng, bị bao vây bởi rất nhiều kẻ thù tàn nhẫn, vậy còn gì để hỗ trợ bà nữa? "Chính bản thân ta," bà đáp, "chính bản thân ta – và thế là đủ." Boileau đã đúng khi ca ngợi câu nói này như một ví dụ hoàn hảo về sự cao cả đích thực – một khoảnh khắc mà sự vĩ đại của tâm hồn được thể hiện bằng sức mạnh đơn giản nhưng đầy uy lực. [39].

 

M 7.8, SBN 253

Khi Phocion – người Athens khiêm tốn và hiền lành – bị dẫn đến nơi hành quyết, ông quay sang một trong những người bạn đồng hành đang khóc thương cho số phận của người này. Phocion nói: “Chẳng phải đó đã là vinh quang đủ cho bạn rồi sao, khi được chết cùng với Phocion?” [3]

 

M 7.9, SBN 253

Hãy so sánh với bức tranh Tacitus vẽ về Vitellius khi ông đã mất ngôi – bám víu vào sự sống một cách thảm hại, bị giao cho một đám đông tàn nhẫn; bị đánh đập, lôi kéo và bị buộc phải ngẩng đầu lên chịu đựng mọi sự sỉ nhục bằng một con dao găm kề dưới cằm. Thật là một sự nhục nhã tột cùng! Thật là một sự hạ thấp phẩm giá đến mức cùng cực! Tuy nhiên, ngay cả trong khoảnh khắc đó, nhà sử học nói rằng, Vitellius vẫn thể hiện những dấu vết của một tinh thần chưa hoàn toàn bị suy đồi: khi một viên quan chế giễu ông ta, ông ta chỉ trả lời đơn giản, “Ta vẫn là hoàng đế của các ngươi [41]. [4]

 

M 7.10, SBN 253

Chúng ta không bao giờ tha thứ cho sự hoàn toàn thiếu vắng của tinh thần và phẩm giá của nhân cách, hay một ý thức đúng thực về những gì thuộc về tự ngã một người, trong xã hội và trong giao tiếp thông thường của đời sống. Thiếu xót này cấu thành những gì vốn chúng ta gọi đúng là sự hèn hạ; khi một người có thể cam chịu sự nô lệ thấp hèn nhất để đạt những mục đích; nịnh hót những người ngược đãi; và hạ thấp bản thân bằng những quan hệ thân mật và gần gũi với những người thấp kém không xứng đáng. Một mức độ tự hào cao quý, hay ý thức về giá trị bản thân là cần thiết, khiến sự vắng mặt của nó trong não thức gây khó chịu, cũng giống như sự thiếu vắng của mũi, con mắt, hay bất kỳ đặc điểm thể chất nào của khuôn mặt hay bộ phận quan trọng nào của cơ thể. [42].

 

M 7.11, SBN 254

Lợi ích của CAN ĐẢM, vừa với cộng đồng lẫn người có nó, là một nền tảng hiển nhiên của giá trị đạo đức. Nhưng với bất kỳ ai suy ngẫm kỹ lưỡng, sẽ hiện ra như phẩm tính này mang một vẻ rực rỡ riêng biệt, hoàn toàn xuất phát từ chính nó, và từ sự cao quý không thể tách rời khỏi nó. Hình ảnh của nó, được những họa sĩ và nhà thơ khắc họa, toát lên từ từng nét vẽ một sự hào hùng và tự tin táo bạo; thu hút ánh nhìn, khơi gợi tình cảm, và lan tỏa, bằng sự đồng cảm, một cảm xúc cao quý tương tự đến mỗi người xem.

 

M 7.12, SBN 254

Dưới những màu sắc rực rỡ nào Demosthenes [43] đã mô tả Philip; khi nhà hùng biện này bảo vệ hành vi của chính ông và biện minh cho tình yêu tự do kiên quyết vốn ông đã truyền hứng khởi cho người dân Athens. Tôi đã nhìn thấy Philip, ông nói, người mà các ngươi phải đối địch, kiên quyết, trong khi theo đuổi quyền bá chủ và thống trị, sẵn sàng chịu mọi vết thương: mắt bị mù, cổ bị trật khớp, cánh tay, đùi bị đâm thủng, bất kỳ phần nào trên cơ thể mà số phận có thể giáng xuống, ông ta sẵn sàng từ bỏ một cách vui vẻ; miễn là, với những gì còn lại, ông ta có thể sống trong vinh dự và nổi tiếng. Và liệu có thể nói rằng, ông sinh ra ở Pella, một nơi trước đây tầm thường và vô danh, lại truyền hứng khởi với một hoài bão cao cả và khát khao danh vọng đến vậy: Trong khi các người, người Athens, v.v... Những ca ngợi này khơi dậy sự ngưỡng mộ sống động nhất; nhưng quan điểm do nhà hùng biện trình bày, chúng ta thấy, không đưa chúng ta vượt ra ngoài chính người anh hùng, cũng không bao giờ xem xét đến những hậu quả có lợi trong tương lai của lòng can đảm của người này. [5]

 

M 7.13, SBN 254-5

Tính khí thượng võ của người Rôma, được những chiến tranh triền miên kích động, đã nâng cao sự tôn trọng với sự can đảm của họ lên quá cao đến mức, trong ngôn ngữ của họ, nó được gọi là đức hạnh, qua sự xuất sắc và khác biệt so với tất cả những phẩm tính đạo đức khác. Theo Tacitus [44], người Suevi làm tóc bới đâuvới một ý định đáng khen ngợi: Không phải để yêu hay được yêu: Họ chỉ trang điểm cho chỉ cho kẻ thù và để trông đáng sợ hơn. Một quan điểm của sử gia, nghe có vẻ hơi kỳ lạ nếu nói ra trong những quốc gia và thời đại khác.

 

M 7.14, SBN 255

Theo Herodotus [45], người Scythia sau khi lột da đầu kẻ thù, đã chế biến da thành da thuộc và dùng nó dùng nó như một chiếc khăn lau ; và ai có nhiều những khăn này nhất sẽ được kính trọng nhất trong số họ. Trong quốc gia đó, cũng như trong nhiều quốc gia khác, quá nhiều can đảm thượng võ như thế đã hủy hoại những tình cảm của lòng nhân đạo, một đức hạnh chắc chắn không chỉ có ích hơn nhưng còn thu hút sự ngưỡng mộ và lòng tốt.

 

M 7.15, SBN 255

Dễ dàng nhận thấy rằng trong số tất cả những quốc gia thiếu sự tinh tế về đạo đức hay phát triển xã hội, — những dân tộc chưa có đủ kinh nghiệm về những hữu ích đi kèm với lòng từ thiện, công lý và những đức hạnh xã hội, thì lòng can đảm là phẩm tính xuất sắc vượt trội; những gì được những nhà thơ ca ngợi nhất, được cha mẹ và người giáo dục khuyến khích, và được công chúng nói chung ngưỡng mộ. Về điểm cụ thể này, đạo đức học của Homer rất khác so với đạo đức học của Fenelon, người bắt chước tao nhã của ông, và chúng phù hợp với thời đại mà một anh hùng, như Thucydides nhận xét, có thể hỏi người khác, mà không hề xúc phạm, rằng liệu người này có phải là một tên cướp hay không. Spencer cho biết một hệ thống đạo đức tương tự, cho đến tận gần đây, vẫn thịnh hành ở nhiều vùng đất chưa khai hóa của Ireland. [47]. [6]

 

M 7.16, SBN 256

Cùng loại với đức hạnh can đảm là SỰ AN TĨNH triết học không bị xáo trộn, vượt lên trên đau đớn, đau buồn, lo âu, và mọi sự tấn công của số phận bất hạnh. Ý thức được đức hạnh của mình, những triết gia nói, bậc hiền triết tự nâng mình lên trên mọi biến cố của cuộc đời; và được đặt vững chắc trong ngôi đền trí tuệ, nhìn xuống những phàm nhân thấp kém, mải mê theo đuổi danh vọng, giàu sang, tên tuổi và mọi thú vui phù phiếm. Những tuyên bố hay lý tưởng này, chắc chắn, khi được đẩy đến cực điểm, đều quá tráng lệ so với bản chất con người. Tuy nhiên, chúng vẫn mang theo một vẻ hào hùng khiến người chứng kiến phải chú ý và tràn đầy ngưỡng mộ.. Và càng tiến gần hơn trong thực hành đến sự an tĩnh và thản nhiên cao cả này (vì ta phải phân biệt nó với sự vô cảm đần độn), chúng ta càng đạt được an vui vững chãi trong nội tâm, và chúng ta sẽ thể hiện cho những người khác sự lớn lao của tinh thần. Sự an tĩnh triết học, quả thực, có thể được xem như một nhánh của khí phách cao thượng.

 

M 7.17, SBN 256

Ai không ngưỡng mộ Socrates; sự thanh thản và mãn nguyện suốt đời của ông, giữa cảnh nghèo túng của cải vật chất và những phiền toái về gia đình; sự khinh miệt kiên quyết của ông với sự giàu sang, và sự quan tâm cao thượng của ông trong việc bảo vệ tự do, trong khi ông từ chối mọi sự giúp đỡ từ bạn bè và học trò, và tránh né ngay cả không muốn nợ một ân tình.? Epictetus ngay cả còn không có lấy một cánh cửa dẫn vào căn nhà nhỏ hay túp lều của mình; và vì vậy, ông đã sớm mất chiếc đèn sắt, vật dụng duy nhất đáng giá vốn ông có. Nhưng quyết tâm làm thất vọng tất cả những tên cướp trong tương lai, ông đã thay thế nó bằng một chiếc đèn đất, và ông đã giữ nó rất bình thản từ đó đến nay.

 

M 7.18, SBN 256-7

Trong số những người xưa, những nhân vật vĩ đại, dù trong triết học, chiến tranh, hay tận tụy phục vụ đất nước (lòng yêu nước), đều thể hiện sự vĩ đại và sức mạnh tình cảm khiến những tâm trí hạn hẹp hơn của chúng ta phải kinh ngạc, và cũng hấp tấp gạt đi như quá đáng hoặc siêu nhiên. Tuy nhiên, tôi nhìn nhận, họ cũng có lý do tương tự để coi mức độ nhân đạo, khoan dung, trật tự, yên bình và các đức tính xã hội khác, vốn chúng ta đã đạt được trong việc quản lý chính quyền thời hiện đại, nếu lúc đó có ai đó có khả năng đưa ra một trình bày công bằng về chúng, là viển vông và khó tin. Đó chính là sự bù đắp mà thiên nhiên, hay đúng hơn là giáo dục, đã tạo ra trong việc phân bổ những phẩm chất và đức tính tốt đẹp ở những thời đại khác nhau.

 

M 7.19, SBN 257

Giá trị của LÒNG TỪ THIỆN, xuất phát từ sự hữu ích của nó và khuynh hướng thúc đẩy phúc lợi của nó cho loài người, đã được giải thích, và chắc chắn là nguồn gốc của một phần đáng kể sự tôn trọng đó, vốn đều được mọi người rộng rãi tôn trọng nó. Nhưng cũng cần công nhận rằng chính sự dịu dàng và ân cần của tình cảm, những gây quí chuộng, những biểu lộ trìu mến, những quan tâm tế nhị, và tất cả dòng chảy đó của tin cậy và tôn trọng lẫn nhau, vốn nó dẫn đến một sự gắn bó nồng ấm của tình yêu và tình bạn: Tôi cho rằng, những cảm xúc này, tự thân đã thú vị, tất yếu sẽ được truyền tải đến người xem, và hòa quyện họ vào cùng một sự trìu mến và tinh tế. Nước mắt tự nhiên trào ra trong mắt chúng ta khi nhận ra một tình cảm ấm áp như vậy: Lồng ngực ta rung động, trái tim chúng ta xao xuyến, và mọi nguyên lý nhân văn dịu dàng trong cơ thể chúng ta đều được khơi dậy, mang đến cho chúng ta vui thích thuần khiết và hài lòng nhất.

 

M 7.20, SBN 257

Khi những nhà thơ mô tả những cánh đồng Elysian, nơi những cư dân may mắn không cần sự giúp đỡ của nhau, họ vẫn mô tả chúng như thể chúng đang duy trì một quan hệ bền chặt của tình yêu và tình thân thiện, và xoa dịu trí tưởng tượng của chúng ta bằng hình ảnh dễ chịu của những tình cảm dịu dàng và êm ái này. Ý tưởng về sự yên bình dịu dàng trong một đồng quê Arcadia cũng dễ chịu theo một nguyên lý tương tự, như đã được quan sát ở trên [48].

 

M 7.21, SBN 257-8

Ai có thể sống giữa những cãi vã triền miên, những mắng mỏ và những trách móc lẫn nhau? Sự thô bạo và khắc nghiệt của những cảm xúc này làm chúng ta bối rối và khó chịu: Chúng ta đau khổ vì sự lây nhiễm và đồng cảm; chúng ta cũng không thể đứng nhìn thờ ơ, mặc dù chắc chắn rằng sẽ không có hậu quả tai hại nào xảy ra từ những giận dữ như vậy.

 

M 7.22, SBN 258

Như một bằng chứng chắc chắn rằng toàn bộ giá trị của lòng từ thiện không chỉ xuất phát từ tính hữu ích của nó, chúng ta có thể nhận thấy rằng, trong một cách trách móc nhẹ nhàng, chúng ta nói một người 'quá tốt bụng' khi họ vượt quá vai trò của mình trong xã hội và dành sự quan tâm cho những người khác vượt quá những giới hạn thích hợp. Cùng cách thức, chúng ta nói, một người thì quá kiêu hãnh, quá gan dạ, quá thờ ơ về của cải hay thành công trần tục. Những chê trách, thực sự, về cơ bản, hàm ý tôn trọng nhiều hơn những lời ca tụng. Chúng ta quen đánh giá đức hạnh và khuyết điểm của nhân cách, chủ yếu trên khunh hướng hữu ích hay tai hại của chúng. Chúng ta không thể không gọi một cảm xúc là đáng trách khi chúng ta thấy nó dâng cao đến mức có hại hoặc quá mức. Nhưng đồng thời, có thể xảy ra rằng rằng sự cao quí đáng ngưỡng mộ của nó hay lòng tốt ấm áp, lôi cuốn của nó có thể chạm sâu vào trái tim, không những không làm giảm, nhưng còn làm tăng tình thân thiện và sự quan tâm của chúng ta với người đó [49].

 

M 7.23, SBN 258

Những mối tình và sự gắn bó của Harry IV của nước Pháp trong suốt nội chiến của Liên minh, thường thường gây phương hại đến lợi ích và sự nghiệp của ông; nhưng ít nhất là tất cả những người trẻ tuổi và những người đang yêu, những người có thể thông cảm với những tình cảm dịu dàng, sẽ công nhận rằng chính điểm yếu này (vì họ sẽ dễ dàng gọi nó như vậy) chủ yếu khiến người anh hùng đó trở nên đáng mến hơn và khiến họ quan tâm đến vận mệnh của ông. [7]

 

M 7.24, SBN 258

Lòng can đảm quá mức và sự cứng nhắc kiên quyết của Charles XII đã tàn phá đất nước của chính mình và gây ảnh hưởng đến tất cả những nước láng giềng; nhưng lại có vẻ ngoài lộng lẫy và vĩ đại đến mức khiến chúng ta phải ngưỡng mộ; và ở một mức độ nào đó, chúng ngay cả có thể được chấp thuận, nếu đôi khi không bộc lộ những triệu chứng quá rõ ràng của sự điên rồ và hỗn loạn. [8]

 

M 7.25, SBN 259

Người Athenss tự nhận mình là đầu tiên phát minh ra nông nghiệp và luật pháp, tự hào về những lợi ích vốn chúng mang lại cho toàn thể loài người.. Họ cũng tự hào về những chiến công quân sự của họ, đặc biệt là trước những hạm đội và những binh đoàn hùng mạnh mà Persia đến xâm lăng Greece dưới thời Darius I và Xerxes I. Tuy nhiên, mặc dù những thành tựu hòa bình này hữu ích hơn nhiều, nhưng chúng ta thấy rằng những nhà hùng biện, những người đã viết những bài ca ngợi công phu về thành phố nổi tiếng đó, đã chủ yếu thành công trong việc phô bày những thành tựu chiến tranh của họ. Lysias, Thucydides, Plato và Isocrates, đều thể hiện cùng một thiên vị – một thành kiến ​​vốn lý trí và sự suy ngẫm có thể lên án, nhưng lại hiện ra hoàn toàn tự nhiên trong tâm lý con người.

 

M 7.26, SBN 259

Có thể thấy rằng, sự quyến rũ lớn lao của thơ ca nằm trong những bức tranh sống động của những tình cảm cao thượng, độ lượng, can đảm, khinh miệt số phận (những thăng trầm của tiền tài, quyền lực, hay hoàn cảnh sống); hay của những cảm xúc dịu dàng hơn, như tình yêu và tình bạn; vốn sưởi ấm lòng, và lan tỏa lên nó những tình cảm và xúc động tương tự. Và mặc dù tất cả những loại tình cảm này, ngay cả những tình cảm khó chịu nhất, như đau buồn và tức giận, đều thây chúng khi được thơ ca khơi dậy, truyền tải một một sự hài lòng, từ một tiến trình tâm lý tự nhiên của bản chất con người, vốn khó hiểu, không dễ giải thích. Thế nhưng, những tình cảm cao cả hay dịu dàng hơn lại có một ảnh hưởng đặc biệt, và làm hài lòng từ nhiều nguyên nhân hay nguyên lý. Chưa kể, chỉ riêng chúng mới khiến chúng ta quan tâm đến số phận của những người được mô tả, hay truyền thông bất kỳ trân trọng và thiện cảm nào với nhân cách của họ.

 

M 7.27, SBN 259-60

Và liệu có ai có thể hoài nghi rằng khả năng khơi gợi cảm xúc của một nhà thơ, khả năng diễn tả cả tình cảm BI THƯƠNG lẫn CAO CẢ, là một công trạng rất quan trọng; và được tăng cường bởi tính cực kỳ hiếm có của nó, có thể nâng cao người sở hữu nó vượt lên trên mọi nhân vật của thời đại vốn họ đang sống? Sự thận trọng, tài năng, sự kiên định và sự cai trị hào phóng của Augustus, cùng với dòng dõi quý tộc và ngai vàng đé quốc, khiến ông trở thành một đối thủ không đội trời chung về danh tiếng với Virgil, người không đặt bất cứ điều gì vào thang bậc đối lập ngoài cái đẹp thần thánh của thiên tài thơ ca của mình. [9]

 

M 7.28, SBN 260

Bản thân sự nhạy cảm với những cái đẹp này, hay một sự TẾ NHỊ của thẩm vị, thì tự nó là một cái đẹp trong bất kỳ nhân cách nào; vì truyền tải niềm vui trong sáng, bền lâu và vô hại nhất

 

M 7.29, SBN 260

Đây là một vài thí dụ về một số loại đức hạnh, vốn được cho là giá trị vì niềm vui tức thời vốn chúng mang lại cho người sở hữu chúng. Không có quan điểm nào về lợi ích hay những hậu quả có lợi trong tương lai lọt vào cảm xúc tán thành này; nhưng nó lại tương tự như những cảm xúc khác, vốn xuất phát từ quan điểm về lợi ích công cộng hay tư nhân. Ta có thể thấy cùng một sự đồng cảm xã hội, hay sự đồng cảm với hạnh phúc hay đau khổ của con người, dẫn đến cả hai; và sự tương đồng này, trong tất cả các phần của lý thuyết hiện tại, có thể được coi là một sự xác nhận chính đáng cho nó.

 

---------------------------------------------------------------

M7.2n35

22.    Xem GHI CHÚ [KK].

 

M 7.2n35.1, SBN 251

Không ai, trong những trường hợp đặc biệt, không bị ảnh hưởng bởi tất cả những cảm xúc khó chịu, sợ hãi, giận dữ, chán nản, đau buồn, u sầu, lo lắng, v.v. Nhưng những cảm xúc này, miễn là chúng tự nhiên và phổ biến, không phân biệt người này với người khác, và không bao giờ có thể bị đổ lỗi. Chỉ khi bản chất tạo ra bất kỳ cảm xúc khó chịu nào trong số này, chúng mới làm biến dạng tính cách, và bằng cách gây ra sự bất an, chúng truyền tải cảm giác không tán thành đến người xem.

 

M 7.3n36, SBN 252

23.    J'aime la vertu, sans rudesse;

J'aime le plaisir, sans molesse;

J'aime la vie, et n'en crains point la fin. St. Evremond.

 

M 7.4n37, SBN 252

24.    Chương 9.

 

M 7.5n38, SBN 252

25.    Tương tự.

 

M 7.7n39, SBN 253

26.    Reflexion 10 sur Longin.

 

M 7.8n40, SBN 253

27.    Plutarch in Phoc.

 

M7.9n41

28.    Xem GHI CHÚ [LL].

 

M 7.9n41.1, SBN 253

TACIT. hist. lib. iii. Tác giả bắt đầu câu chuyện bằng cách nói: Laniata veste, fœdum spectaculum ducebatur, multis increpantibus, nullo inlacrimante: deformatitas exitus misericordiam abstulerat. Để thấu hiểu triệt để cách suy nghĩ này, chúng ta phải chấp nhận những nguyên tắc cổ xưa rằng không ai nên kéo dài cuộc sống khi nó trở nên ô nhục; mà vì họ luôn có quyền quyết định về nó, thì lúc đó việc từ bỏ cuộc sống trở thành một bổn phận.

 

M7.10n42

29.    Xem GHI CHÚ [MM].

 

M 7.10n42.1, SBN 253-4

Việc thiếu đức hạnh thường có thể là một tật xấu; và là tật xấu ở mức độ cao nhất; như trong trường hợp của sự vô ơn, cũng như sự đê tiện. Khi chúng ta mong đợi một cái đẹp, sự thất vọng lại mang đến một cảm giác khó chịu, và tạo ra một sự biến dạng thực sự. Tương tự như vậy, một tính cách hèn hạ là đáng ghê tởm và đáng khinh bỉ theo một góc nhìn khác. Khi một người không có ý thức về giá trị của bản thân, chúng ta khó có thể có được sự ước định cao hơn về người này. Và nếu cùng một người, người khom lưng trước cấp trên của mình, lại hỗn láo với cấp dưới (điều thường xảy ra), thì sự trái ngược trong hành vi này, thay vì sửa chữa tật xấu trước đó, lại làm trầm trọng thêm nó bằng cách thêm vào một tật xấu ngay cả còn ghê tởm hơn. Xem phần 8.

 

M 7.12n43, SBN 254

30.    Pro corona.

 

M 7.13n44, SBN 255

31.    De moribus Germ.

 

M 7.14n45, SBN 255

32.    Lib. iv.

 

M 7.15n46, SBN 255

33.    Lib. i.

 

M 7.15n47, SBN 255

34.    Ông nói rằng, giữa những người con của giới quý tộc, khi vừa có thể sử dụng vũ khí, họ thường tập hợp một vài người bạn đồng hành hoặc lính tráng cấp thấp, rồi lang thang khắp vùng quê một cách vô định, sống nhờ vào thức ăn kiếm được. Cuối cùng, họ lâm vào một tình huống nguy hiểm nào đó, và khi lòng dũng cảm của họ trong khoảnh khắc ấy được biết đến, họ sẽ được coi là những người dũng cảm và đáng trọng từ đó về sau.

 

M 7.20n48, SBN 257

35.    Mục v. Phần 2.

 

M 7.22n49, SBN 258

22.    Sự vui vẻ khó có thể bị khiển trách vì thái quá, nếu không phải là sự vui đùa vô độ, không có nguyên nhân hay chủ đề thích hợp, chắc chắn là dấu hiệu của sự ngu ngốc, và vì lý do đó, nó khó chịu.

 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(May/2025)

(Còn tiếp... )

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 



[1] Hume trích dẫn Cassius, như được Caesar mô tả trong vở kịch Julius Caesar của Shakespeare, để minh họa một quan điểm về bản chất con người và sự tôn trọng xã hội. Một tính khí khắc khổ, buồn bã, dù có trí tuệ hoặc đức hạnh, thường không nhận được sự ngưỡng mộ hay tình bạn. Sự thiếu vui hưởng cuộc sống và thái độ nghiêm túc tự giễu cợt bản thân khiến Cassius trở nên khó ưa, làm nổi bật quan điểm của Hume rằng sự vui vẻ và khả năng mang lại niềm vui cho người khác tự nhiên thu hút sự tôn trọng và thiện chí.

[2] Alexander đã vấp phải sự phản đối từ một số binh lính của ông, những người đã kiệt sức sau nhiều năm chinh chiến, khi ông đưa ra những cuộc viễn chinh tiếp theo vào India. Theo Plutarch (Cuộc đời Alexander) và những nhà bình luận sau này, ông đã khiển trách họ một cách gay gắt, khẳng định uy quyền của ông và nhắc nhở họ về sứ mệnh chinh phục thế giới. Câu nói nổi tiếng mà Hume trích dẫn có thể chỉ là một sự tô vẽ văn chương, nhưng sự kiện cốt lõi – lòng tin kiên định và kỳ vọng vào sự phục tùng của Alexander – có căn cứ lịch sử. Hume cũng trích dẫn Hoàng tử xứ Condé (Louis II de Bourbon, 1621–1686), một vị tướng Pháp nổi tiếng, người ngưỡng mộ những nhà lãnh đạo cổ điển, để chứng minh rằng ngay cả những nhân vật quân sự sau này cũng thừa nhận những phẩm chất phi thường của Alexander.

[3] Phocion (khoảng 402–318 TCN) là một chính khách và tướng lĩnh người Athens nổi tiếng về sự chính trực, ôn hòa và đức hạnh. Ông bị kết án tử hình một cách oan uổng sau khi bị buộc tội phản quốc. Trong khoảnh khắc đó, câu trả lời bình tĩnh và trang nghiêm của ông thể hiện phẩm chất cao thượng mà Hume ngưỡng mộ – đức hạnh được thể hiện qua sự điềm tĩnh và tự chủ ngay cả khi đối mặt với cái chết.

[4] Vitellius là hoàng đế Rôma trong một thời gian ngắn vào năm 69 sau Công nguyên, trong “Năm của bốn vị hoàng đế”. Sau khi bị quân đội của Vespasian đánh bại, ông ta bị bắt và bị binh lính và đám đông Rôma làm nhục một cách tàn bạo trước khi bị hành quyết. Tacitus (trong tác phẩm Lịch sử) ghi nhận rằng ngay cả trong sự hạ nhục phẩm giá này, Vitellius vẫn giữ được một tia sáng của phẩm giá đế vương – một sự khẳng định bản năng về sự uy nghiêm trước đây của mình.

[5] Trong đoạn văn này, Demosthenes, nhà hùng biện người Athens, đã hướng lời đến dân chúng Athens và mô tả đối thủ của họ, Philip xứ Macedon, như một con người kiên quyết và dũng cảm, dám liều mình chịu mọi vết thương trong sự theo đuổi quyền bá chủ và vinh quang. Lời kể sinh động của ông khơi gợi sự ngưỡng mộ trước sự vĩ đại cá nhân của Philip, mà không cần tính đến những lợi ích sau này của lòng dũng cảm ấy. Hume dùng ví dụ này để chỉ ra rằng con người thường quý trọng đức hạnh vì sự cao quý nội tại của nó, hơn là vì những tác dụng thực tiễn nó mang lại.

[6] Hume so sánh Homer và Fénelon để chỉ ra sự khác biệt giữa các chuẩn mực đạo đức theo xã hội và thời đại. Đạo đức của Homer, phản ảnh nền văn minh Hellas anh hùng, đề cao lòng dũng cảm, danh dự và vinh quang cá nhân, nơi sự táo bạo và những thử thách trực tiếp được ngưỡng mộ. Fénelon, viết ở nước Pháp tao nhã, trình bày một nền đạo đức tao nhã, tao nhã, nhấn mạnh sự điều độ, dịu dàng và cách cư xử tao nhã. Sau đó, Hume trích dẫn lời kể của Edmund Spenser về Ireland (cuối thế kỷ 16) để minh họa rằng đạo đức theo phong cách Homer – tập trung vào lòng dũng cảm và danh dự – vẫn tồn tại ở một số vùng rất lâu sau Hellas cổ đại, nơi những đức tính anh hùng, thô sơ vẫn định hướng hành vi.

[7] Hume đề cập đến vua Henri IV của Pháp (trị vì 1589–1610) trong bối cảnh Chiến tranh Tôn giáo Pháp, đặc biệt là các cuộc nội chiến với Liên minh Catô. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về chính trị và quân sự, Henri IV vẫn có nhiều mối tình lãng mạn. Những ràng buộc tình cảm này đôi khi gây hại cho sự nghiệp chính trị của ông, nhưng đồng thời cũng khiến ông trở nên gần gũi và cuốn hút hơn, đặc biệt là đối với những người trân trọng hoặc đồng cảm với những tình cảm dịu dàng—những cảm xúc nhẹ nhàng, yêu thương và giàu lòng trắc ẩn

[8] Hume nhắc đến Charles XII của Sweden (trị vì 1697–1718). Lòng dũng cảm tột độ và sự bướng bỉnh không lay chuyển của ông đã gây ra thảm họa cho đất nước mình và mang lại đau khổ cho các quốc gia lân cận.

[9] Hai từ này, “bi thương” và “cao cả”, là những thuật ngữ thẩm mỹ chủ chốt trong văn chương thế kỷ 18. Dưới đây là ý nghĩa của chúng trong ngữ cảnh của Hume, nói một cách đơn giản: (a) Từ bi thương → bắt nguồn từ tiếng Hellas pathos (cảm xúc). Nó có nghĩa là sức mạnh để thể hiện hoặc khơi gợi cảm xúc sâu xa, đặc biệt là những cảm xúc dịu dàng hoặc đau buồn — như thương hại, yêu thương hoặc trắc ẩn. → Nói một cách dễ hiểu: khía cạnh cảm xúc, lay động của thơ ca. (b) Từ cao cả (sublime) → có nghĩa là sức mạnh để khơi dậy sự kính sợ hoặc ngưỡng mộ thông qua sự vĩ đại, cao quý, hoặc tư tưởng cao thượng. Đó là loại vẻ đẹp mang lại cảm giác hùng vĩ, thậm chí choáng ngợp — như một ngọn núi hùng vĩ, lòng dũng cảm anh hùng, hay chân lý thiêng liêng. → Nói một cách dễ hiểu: khía cạnh cao cả, đáng kính của thơ ca. Vì vậy, khi Hume nói “sự bi thương và cao cả của tình cảm”, ông muốn nói đến “khả năng khơi dậy cảm xúc sâu xa và nâng cao tâm trí bằng sự vĩ đại của nhà thơ.”