Tuesday, November 11, 2025

Hume – Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức (11)

Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức

(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)

 David Hume

 ( ← ... tiếp theo )

 




 

MỤC IX.

Phần Kết Luận.

 

PHẦN I.

 

M 9.1, SBN 268-9

Quả thực có thể gây ngạc nhiên rằng, trong một thời đại đã tiến bộ như vậy, vẫn còn người cảm thấy cần phải chứng minh – bằng những lý lẽ công phu – rằng GIÁ TRỊ CÁ NHÂN hoàn toàn nằm ở việc sở hữu những phẩm chất tinh thần hữu ích hoặc dễ chịu cho chính bản thân người đó hoặc cho người khác. Người ta có thể mong đợi rằng nguyên lý này đã được nhận ra ngay cả bởi những nhà nghiên cứu đạo đức sơ khai, thiếu kinh nghiệm nhất, và đã được chấp nhận từ chính sự hiển nhiên của nó, mà không cần bất kỳ tranh luận hay bàn cãi nào.Bất cứ gì có giá trị, dù thuộc loại nào, đều tự nhiên được xếp vào một trong hai hạng mục: hữu ích hoặc dễ chịu (utile hoặc dulce), đến mức khó có thể tưởng tượng tại sao chúng ta lại cần tìm kiếm thêm, hay coi vấn đề này như một chủ đề cần nghiên cứu hay điều tra tỉ mỉ. Và vì mọi thứ hữu ích hoặc dễ chịu đều phải mang những phẩm chất đó đối với chính bản thân người đó hoặc đối với người khác, nên việc mô tả hoặc định nghĩa đầy đủ về giá trị cá nhân dường như được thực hiện một cách tự nhiên như bóng được chiếu bởi mặt trời, hay hình ảnh được phản chiếu trên mặt nước.Nếu mặt đất, nơi bóng được chiếu xuống, không gồ ghề hay lồi lõm; và mặt nước, nơi hình ảnh được phản chiếu, không bị xáo động hay mờ ảo, thì một hình ảnh chính xác sẽ lập tức hiện ra mà không cần bất kỳ kỹ thuật hay chú ý nào. Và có vẻ như một giả định hợp lý rằng những hệ thống và giả thuyết đã làm sai lệch sự hiểu biết tự nhiên của chúng ta; khi một lý thuyết đơn giản và hiển nhiên như vậy lại có thể tránh khỏi sự kiểm tra kỹ lưỡng nhất trong một thời gian dài như thế.

 

M 9.2, SBN 269-70

Nhưng dù cho triết học có thể đã thành công hay thất bại trong vấn đề này thế nào đi nữa, trong đời sống thường ngày, những nguyên lý này vẫn ngầm được duy trì. Khi chúng ta khen ngợi hay chỉ trích, ca tụng hay phê phán hành động và ứng xử của con người, chúng ta không bao giờ dựa vào bất kỳ chủ đề nào khác ngoài những nguyên lý này. Nếu quan sát con người trong mọi giao tiếp công việc hay giải trí, trong mọi trò chuyện và đối thoại, chúng ta sẽ không tìm thấy ai, ngoại trừ những triết gia và học giả trong những trường phái bối rối hoặc không chắc chắn về chủ đề này.

Thí dụ, còn gì tự nhiên hơn trò chuyện sau đây? – Chắc hẳn ông rất sung sướng, chúng ta có thể giả định một người nói như vậy khi nói với một người khác, rằng ông đã gả con gái cho Cleanthes. Anh ấy là một người trọng danh dự và nhân ái. Bất cứ ai giao thiệp với anh ấy đều chắc chắn sẽ được đối xử công bằngtử tế [53]. – Tôi cũng xin chúc mừng ông, một người khác nói, về những kỳ vọng đầy hứa hẹn của người con rể này; người mà sự siêng năng nghiên cứu luật pháp, sự hiểu biết nhanh chóng và kiến ​​thức sớm về cả con người và công việc, dự báo những vinh dự và và sự thăng tiến lớn nhất [54]. – Ông làm tôi ngạc nhiên, người thứ ba trả lời, khi ông nói về Cleanthes như một con người công việc và học thức. Tôi đã gặp anh ấy gần đây trong một nhóm bạn vui vẻ nhất, và anh ấy là chính linh hồn của trò chuyện của chúng tôi: Rất nhiều trí thông minh với cách cư xử tốt; rất nhiều sự hào hiệp vốn không giả tạo; rất nhiều kiến ​​thức uyên bác được truyền đạt một cách lịch thiệp, tôi chưa bao giờ thấy trước đây ở bất kỳ ai [55]. – Ông sẽ ngưỡng mộ anh ấy hơn nữa, người thứ tư nói, nếu ông biết anh ấy thân thiết hơn. Sự vui vẻ mà ông có thể nhận thấy ở anh ấy, không phải là một tia sáng lóe lên đột ngột từ đám đông: Nó chạy qua toàn bộ cuộc đời anh ấy, và giữ cho vẻ mặt anh luôn thanh thản, tâm hồn anh tĩnh lặng. Anh ấy đã trải qua những thử thách, bất hạnh và nguy hiểm khắc nghiệt; và nhờ sự vĩ đại của tâm hồn, Anh vẫn vượt trội hơn tất cả những sự việc đó [56]. Thưa quý ông, tôi kêu lên, bức tranh mà quí vị vừa vẽ về Cleanthes là một đức hạnh trọn vẹn và hoàn hảo. [1] Mỗi người trong những vị đã thêm một nét cọ vào chân dung của anh ấy, và cùng nhau, dù không cố ý, quí vị đã vượt qua tất cả những nhân vật mà Gracián hay Castiglione đã khắc họa. Một triết gia hoàn toàn có thể chọn người này làm mẫu mực của đức hạnh toàn hảo. [2]

 

M 9.3, SBN 270

Và vì mọi phẩm tính có lợi hay dễ chịu với bản thân hay người khác, trong kinh nghiệm sống thường nhật của con người, thường được công nhận là một phần của giá trị cá nhân, thì không một phẩm tính nào khác được chấp nhận là đức hạnh – ít nhất là bởi những người đánh giá bằng lý trí tự nhiên, không định kiến, chứ không phải qua lăng kính lừa dối của mê tín hay tôn giáo sai lầm.Thí dụ, hãy lấy việc độc thân, ăn chay, sám hối, hành xác, tự chối bỏ bản thân, khiêm nhường, im lặng, cô độc, và tất cả những cái gọi là "đức hạnh của tu sĩ" đó làm thí dụ. Tại sao những những người có lý trí sáng suốt ở khắp mọi nơi lại từ chối chúng? Đơn giản vì chúng không phục vụ mục đích thực sự nào cả – chúng không giúp một người thành công trong cuộc sống, khiến người này trở thành một thành viên tốt hơn của xã hội, giúp người này trở thành một người bạn đồng hành dễ chịu hay tăng thêm hạnh phúc cho chính người này. Ngược lại, chúng ta thấy rằng những thực hành như vậy vượt qua tất cả những mục đích mong muốn này; làm ngu ngốc sự hiểu biết và chai sạn trái tim, che mờ trí tưởng tượng và làm chua chát tính khí.Vì vậy, chúng ta hoàn toàn đúng khi xếp chúng vào danh sách những thói xấu. Không một mê tín dị đoan nào, dù mạnh mẽ đến đâu, có thể hoàn toàn làm hỏng cảm xúc tự nhiên của những người sáng suốt. Một kẻ cuồng tín u ám, điên loạn có thể được xếp vào hàng những vị thánh sau khi chết; nhưng khi còn sống, hắn khó có thể tìm được chỗ đứng trong tình bạn hay xã hội của bất kỳ ai – ngoại trừ những người ảm đạm và ảo tưởng như chính người ấy. Do đó, chúng ta chuyển những phẩm tính đó sang cột đối diện và xếp chúng vào danh mục những thói hư tật xấu; cũng không một mê tín nào đủ mạnh mẽ, giữa những người sáng suốt, để làm băng hoại hoàn toàn những tình cảm tự nhiên này. Một kẻ cuồng tín u ám, nửa điên nửa tỉnh có thể, sau khi chết, được công nhận chính thức là một vị thánh và được đưa vào lịch những thánh của hội Nhà thờ., nhưng khi còn sống, người này hiếm khi được chào đón vào những quan hệ bình thường hay bạn bè thân thiết – ngoại trừ những người cũng mê muội và buồn bã u ám như chính người này. [3]

 

M 9.4, SBN 270-1

Có vẻ như thật may mắn khi lý thuyết hiện tại không đi sâu vào tranh luận tầm thường về mức độ từ thiện hay tình cảm vị kỷ tương ứng trong bản chất con người; một tranh luận khó có thể giải quyết, bởi vì những người tham gia không dễ bị thuyết phục, và bởi vì những hiện tượng có thể xảy ra ở cả hai phía đều rất phân tán, không chắc chắn, và dễ bị diễn giải theo nhiều cách khác nhau, đến mức khó có thể so sánh chúng một cách chính xác, hoặc rút ra bất kỳ suy luận hay kết luận chắc chắn nào từ chúng. Mục đích hiện tại của chúng ta chỉ cần thừa nhận rằng, điều chắc chắn, không thể phủ nhận, mà không hề phi lý, là có một chút từ thiện nào đó, dù nhỏ bé, được truyền vào lòng chúng ta; một tia lửa tình thân thiện nào đó dành cho loài người; một chút tinh thần bồ câu – sự dịu dàng, tử tế, hoặc thiện chí – nào đó, được nhào nặn vào cơ thể chúng ta, cùng với những yếu tố của sói đá và rắn độc. Hãy để những tình cảm hào hiệp này được coi là yếu ớt; hãy để chúng thậm chí không đủ để lay động dù chỉ một bàn tay hay một ngón tay trên cơ thể chúng ta; Chúng vẫn phải chỉ đạo những quyết định của não thức chúng ta, và khi mọi sự vật việc khác đều bình đẳng, sẽ tạo ra một sự ưu tiên bình tĩnh cho những gì có lợi và có ích cho loài người, hơn là những gì có hại và nguy hiểm. Do đó, một sự phân biệt về đạo đức ngay lập tức nảy sinh; một cảm giác tổng quát về khiển trách và tán thành; một khuynh hướng, dù yếu ớt, với những mục tiêu của bên này, và một ác cảm tương ứng với những mục tiêu của bên kia. Những nhà lý luận, những người hết lòng duy trì tình cảm vị kỷ ưu thắng của loài người, cũng sẽ không hề cảm thấy bị xúc phạm khi nghe về những tình cảm yếu đuối về đức hạnh đã ăn sâu vào bản chất chúng ta. Ngược lại, những người lý luận này thường háo hức bảo vệ quan điểm này cũng như quan điểm kia; và chính tinh thần châm biếm của họ (vì nó hiện ra như mỉa mai đúng hơn là suy đồi đạo đức), đã tự nhiên tạo ra cả hai quan điểm, trên thực tế, chúng có liên hệ chặt chẽ và gần như không thể tách rời với nhau.

 

 

M 9.5, SBN 271-2

Lòng tham, tham vọng, sự phù phiếm, và tất cả những tình cảm tầm thường, mặc dù không đúng đắn, được bao hàm dưới cái tên tự ái, ở đây bị loại trừ khỏi lý thuyết của chúng ta về nguồn gốc của đạo đức, không phải vì chúng quá yếu, vốn vì chúng không có một định hướng đúng đắn cho mục đích đó. Khái niệm đạo đức hàm ý một tình cảm chung cho toàn thể loài người, khuyến nghị cùng một đối tượng để được chấp thuận chung, và khiến mọi người, hay hầu hết mọi người, đồng tình trong cùng một quan điểm hay quyết định liên quan đến nó. Nó cũng hàm ý một tình cảm phổ quát và toàn diện đến mức mở rộng đến toàn thể loài người, và khiến hành động và hành vi, ngay cả của những người xa lạ nhất, trở thành đối tượng được hoan nghênh hay chỉ trích, tùy thuộc vào việc họ đồng tình hay phản với quy luật đúng đắn đã được thiết lập. Chỉ có hai hoàn cảnh cần thiết này thuộc về tình cảm của loài người được nhấn mạnh ở đây. Những tình cảm khác sinh sản trong mỗi con tim nhiều tình cảm mạnh mẽ về ham muốn và ác cảm, yêu mến và căm ghét; nhưng cả hai đều không được cảm nhận chung, cũng không toàn diện đến mức trở thành nền tảng của bất kỳ hệ thống chung và lý thuyết đã được thiết lập nào về sự khiển trách hay chấp thuận.

 

M 9.6, SBN 272-3

Khi một người gọi một ai đó là kẻ thù, đối thủ, đối địch, hoặc kẻ chống đối của mình, chúng ta hiểu rằng người này đang nói vì lợi ích cá nhân – bộc lộ cảm xúc xuất phát từ hoàn cảnh cá nhân.Nhưng khi người này gọi ai đó là xấu xa, đáng ghét, hay đồi bại, người này đang nói một ngôn ngữ khác – một ngôn ngữ khơi gợi ý thức đạo đức chung. Khi làm như vậy, anh ta mong đợi mọi người lắng nghe đều đồng tình với phán đoán của mình. Do đó, ở đây, người này phải rời bỏ tình thế riêng tư và đặc thù, và phải chọn một quan điểm có chung giữa người này với những người khác. Người này phải khơi gợi một nguyên lý phổ quát nào đó trong bản chất con người, và chạm vào một sợi dây đồng cảm vốn tất cả loài người đều có thể cộng hưởng. Do đó, nếu người này muốn nói rằng người kia sở hữu những phẩm tính có có khuynh hướng gây hại cho xã hội, thì thì người này đã chọn quan điểm chung này, và đã chạm vào nguyên lý nhân đạo – một nguyên lý mà mỗi người, ở một mức độ nào đó, đều đồng tình. Chừng nào trái tim con người vẫn được cấu thành từ những yếu tố như ngày nay, nó sẽ không bao giờ hoàn toàn thờ ơ với lợi ích chung, cũng không bao giờ thờ ơ với phẩm tính và hành vi đạo đức của người khác. Và mặc dù tình cảm nhân đạo này có thể không mạnh mẽ như lòng tự cao hay tham vọng, nhưng nó được chia sẻ bởi tất cả mọi người, và do đó, chỉ riêng nó mới có thể đóng vai trò là nền tảng thực sự của đạo đức, hay của bất kỳ hệ thống tổng quát nào về sự khiển trách hay khen ngợi. Tham vọng của người này không phải là của người khác; điều gì kích thích hoặc thỏa mãn người này chưa chắc đã làm người kia rung động. Nhưng tình nhân đạo trong mỗi người là như nhau, và cùng một đối tượng khơi dậy tình cảm này trong mỗi con người.

 

M 9.7, SBN 273

Nhưng những tình cảm phát sinh từ tình nhân đạo không chỉ giống nhau trong tất cả con người và tạo ra sự tán thành hoặc chỉ trích như nhau, nhưng chúng còn bao trùm tất cả mọi người; và không có bất kỳ ai mà hành vi hoặc tính cách của họ, qua những tình cảm này, lại không trở thành đối tượng để mỗi người khác đánh giá hoặc phê phán. Ngược lại, những tình cảm khác, thường được gọi là tình cảm vị kỷ, không chỉ tạo ra những tình cảm khác nhau ở mỗi cá nhân, tùy theo hoàn cảnh cụ thể của người đó; nhưng còn nhìn phần lớn loài người với sự thờ ơ và vô tâm tối đa. Bất kỳ ai coi trọng và đánh giá cao tôi sẽ làm thỏa mãn lòng tự ái của tôi; ai thể hiện sự khinh miệt sẽ làm tôi tổn thương và bất mãn. Nhưng vì tên tuổi của tôi chỉ được biết đến bởi một phần nhỏ loài người, nên rất ít người nằm trong phạm vi ảnh hưởng của tình cảm này, hoặc khơi dậy – vì nó – sự yêu mến hay chán ghét của tôi. Nhưng nếu bạn mô tả một hành vi bạo ngược, ngạo mạn, hoặc man rợ ở bất kỳ quốc gia nào hay bất kỳ thời đại nào trên thế giới, tôi sẽ nhanh chóng nhìn thấy khuynh hướng tai hại của hành vi đó, và cảm thấy ghê tởm và bất mãn, khó chịu đối với nó. Không có nhân vật nào xa lạ đến mức, dưới góc nhìn này, trở nên hoàn toàn vô cảm đối với tôi. Điều gì có lợi cho xã hội hoặc cho chính bản thân người đó vẫn phải được ưa chuộng. Và mỗi phẩm chất hoặc hành động của mỗi con người, qua cách này, đều phải được xếp vào một loại hoặc danh mục nào đó, thể hiện sự chỉ trích hay tán dương chung.

 

M 9.8, SBN 273-4

Vậy thì chúng ta còn có thể đòi hỏi gì hơn nữa để phân biệt những tình cảm phụ thuộc vào lòng nhân đạo với những tình cảm gắn liền với bất kỳ đam mê nào khác, hoặc để thuyết phục chúng ta rằng những tình cảm trước mới là nguồn gốc của đạo đức, chứ không phải những tình cảm sau? Bất kỳ hành vi nào giành được sự tán thành của tôi bằng cách chạm đến lòng nhân đạo của tôi, cũng sẽ nhận được sự tán dương của toàn thể loài người, bởi vì nó tác động đến nguyên lý tương tự trong họ. Nhưng những gì phục vụ lòng tham hoặc tham vọng của tôi chỉ làm hài lòng những tình cảm này trong tôi mà thôi, và không ảnh hưởng đến lòng tham hoặc tham vọng của phần còn lại của loài người. Không có bất kỳ hoàn cảnh của hành vi ứng xử nào của bất kỳ một người nào, miễn là nó có khuynh hướng mang lại lợi ích, mà không làm tôi cảm thấy dễ chịu vì lòng nhân đạo của tôi, dù người đó có xa lạ đến đâu. Nhưng bất kỳ người nào, nếu không cản trở hoặc phục vụ lòng tham và tham vọng của tôi, đều bị những tình cảm đó coi là hoàn toàn thờ ơ. Do đó, sự khác biệt giữa những loại tình cảm này quá lớn và rõ ràng, ngôn ngữ phải sớm được định hình theo nó, và phải phát minh ra một tập hợp những thuật ngữ đặc biệt, để diễn đạt những tình cảm phổ quát về sự chỉ trích hay chấp thuận, xuất phát từ lòng nhân đạo, hay từ quan điểm về sự hữu ích chung và những điều trái ngược với nó. ĐỨC HẠNH và THÓI HƯ TẬT XẤU từ đó được nhận biết; ĐẠO ĐỨC được thừa nhận. Những khái niệm tổng quát về hành vi và cách ứng xử của con người được hình thành: Người ta kỳ vọng những hành động nhất định từ con người trong những hoàn cảnh nhất định. Hành động này được xác định là phù hợp với quy luật trừu tượng của chúng ta; hành động kia thì ngược lại. Và qua những nguyên lý phổ quát như vậy, những cảm xúc đặc thù của tình cảm vị kỷ thường bị kiểm soát và giới hạn [57].

 

M 9.9, SBN 275-6

Từ những thí dụ về bất ổn công chúng, bạo loạn, phe phái, hoảng loạn và tất cả những tình cảm được đông đảo quần chúng chia sẻ, chúng ta có thể nhận thấy ảnh hưởng của xã hội trong việc khơi dậy và duy trì bất kỳ cảm xúc nào Những rối loạn khó kiềm chế nhất cũng có thể bùng phát bằng cách này, thường chỉ từ những nguyên nhân nhỏ nhặt và tầm thường nhất.Solon không phải là một nhà lập pháp quá tàn nhẫn, dù có lẽ ông là một nhà lập pháp bất công khi trừng phạt những người trung lập trong những cuộc nội chiến. Và tôi tin rằng, rất ít người, trong những trường hợp như vậy, phải chịu hình phạt, nếu tình cảm và lời nói của họ đủ để minh oan cho họ. Không một tình cảm vị kỷ nào, và hiếm có triết lý nào, đủ sức mạnh để duy trì một thái độ hoàn toàn lạnh lùng và thờ ơ; và người nào không bùng cháy trong ngọn lửa chung của cộng đồng, thì người đó hoặc không phải là con người, hoặc đã vượt xa khỏi con người.Không một vị kỷ nào, hay ngay cả triết lý vững chắc nhất, có thể đủ sức giữ cho một người hoàn toàn bình tĩnh và bất động khi ngọn lửa đam mê của đám đông bùng cháy. Bởi vì trong những khoảnh khắc như vậy, cảm xúc của nhiều người trở nên lan tỏa, và lý trí cũng bị cuốn theo dòng chảy. Người ta phải hoặc là siêu phàm – được ban cho một sự tách biệt gần như thần thánh – hoặc là kém cõi, thiếu vắng những đồng cảm tự nhiên gắn kết chúng ta lại với nhau, mới không cảm thấy trái tim mình rung động trước ngọn lửa chung. Vậy thì có gì ngạc nhiên khi những tình cảm đạo đức lại có ảnh hưởng lớn như vậy trong đời sống; mặc dù xuất phát từ những nguyên lý, thoạt nhìn có vẻ hơi nhỏ bé và mong manh? Nhưng những nguyên lý này, chúng ta phải lưu ý, mang tính xã hội và phổ quát: Theo một cách nào đó, chúng hình thành nên phe nhóm của loài người chống lại thói hư tật xấu hay sự hỗn loạn, kẻ thù chung của xã hội. Và vì lòng nhân ái dành cho những người khác được lan tỏa, ít nhiều, đến tất cả mọi người, và giống nhau ở tất cả mọi người, nên nó xuất hiện thường xuyên hơn trong lời nói, được xã hội và trò chuyện trân trọng, và những chỉ trích hay tán thưởng, do đó, được đánh thức, thay vì bị bỏ mặc trong trạng thái ngủ quên như khi sống cô lập hoặc trong môi trường nguyên thủy. Những tình cảm khác dù có thể mạnh mẽ hơn theo bản năng ban đầu, nhưng vì mang tính vị kỷ và chỉ giới hạn trong cá nhân, thường bị sức mạnh của tình cảm xã hội kiềm chế, và phải nhường sự thống trị trong trái tim chúng ta cho những nguyên lý nhân ái, rộng lượng và cộng đồng hơn. [4]

 

M 9.10, SBN 276

Một nguồn sức mạnh khác trong bản chất chúng ta, củng cố mạnh mẽ tình cảm đạo đức chính là lòng ham danh vọng; thứ chi phối, với một quyền lực không thể kiểm soát, trong tất cả những tâm hồn rộng lượng, và thường là mục tiêu lớn lao cho mọi kế hoạch và dự định của họ. Trong nỗ lực không ngừng để có được danh tiếng tốt, một cái tên được kính trọng, hoặc một nhân cách xuất chúng, chúng ta thường xuyên xem xét lại hành động của chính mình và xem xét chúng xuất hiện như thế nào đối với những người quan sát chúng ta. Thói quen thường xuyên tự vấn bản thân, như thể, trong sự phản chiếu, duy trì mọi cảm xúc đúng sai, và khơi dậy, trong những bản chất cao quý, một sự tôn kính nhất định với bản thân cũng như người khác; đó là người bảo vệ chắc chắn nhất cho mọi đức hạnh. Ở những cá nhân như vậy, những tiện nghi và thú vui vật chất đơn thuần dần dần mất đi giá trị; trong khi mọi cái đẹp nội tâm và những phẩm chất đáng ngưỡng mộ và dễ chịu về đạo đức đều được trau dồi một cách cần mẫn, và trí tuệ đạt đến mọi sự toàn hảo, điều có thể tô điểm hay làm đẹp thêm cho một sinh vật lý trí.

 

M 9.11, SBN 276

Đây chính là đạo đức hoàn thiện nhất vốn chúng ta biết đến: Ở đây thể hiện sức mạnh của nhiều sự đồng cảm. Tình cảm đạo đức của chúng ta chủ yếu cũng là một loại cảm xúc như vậy: Và sự quan tâm của chúng ta đến nhân cách của người khác dường như chỉ phát sinh từ mong muốn duy trì nhân cách của chính mình; và để đạt được mục đích này, chúng ta thấy cần phải củng cố phán đoán lung lay của mình bằng sự tán thành tương ứng từ loài người.

 

M 9.12, SBN 276-8

Nhưng để có thể giải quyết vấn đề và loại bỏ, nếu có thể, mọi khó khăn, hãy thừa nhận rằng tất cả những lập luận này là sai lầm. Hãy thừa nhận rằng, khi chúng ta giải thích vui sướng xuất phát từ quan điểm về hữu ích thành tình cảm nhân đạo và sự đồng cảm, chúng ta đã chấp nhận một giả thuyết sai lầm. Hãy thừa nhận rằng cần phải tìm một giải thích khác cho sự tán dương dành cho những đối tượng, dù vô tri, hữu giác hay lý trí, nếu chúng có khuynh hướng thúc đẩy phúc lợi và lợi ích của loài người. Dù khó có thể hình dung rằng một đối tượng được chấp nhận chỉ vì nó hướng đến một mục đích nhất định, trong khi bản thân mục đích đó lại hoàn toàn thờ ơ; chúng ta hãy chấp nhận sự phi lý này và xem xét những hậu quả tiếp theo. Phân tích hoặc định nghĩa trước đó về giá trị đạo đức cá nhân vẫn phải giữ nguyên bằng chứng giá trị và thẩm quyền thuyết phục của nó. Vẫn phải nhìn nhận rằng mọi phẩm chất của tâm trí, hữu ích hoặc dễ chịu cho bản thân hoặc người khác, đều tạo một vui thích cho người quan sát, giành được sự tôn trọng của người đó, và xứng đáng được xếp vào danh xưng danh dự là đức hạnh hoặc giá trị. Chẳng phải công lý, sự trung thực, danh dự, sự chân thật, lòng trung thành và tiết hạnh chỉ được coi trọng vì chúng có khuynh hướng thúc đẩy hữu ích xã hội hay sao? Chẳng phải khuynh hướng đó không thể tách rời khỏi lòng nhân đạo, lòng từ thiện, sự khoan dung, lòng hào hiệp, lòng biết ơn, sự điều độ, sự dịu dàng, tình thân thiện và tất cả những đức hạnh xã hội khác hay sao? Liệu có thể hoài nghi rằng sự cần cù, sự thận trọng, tính tiết kiệm, sự bí mật, sự ngăn nắp, sự kiên trì, sự suy tính trước, sự phán đoán và toàn bộ những đức hạnh và thành tựu này, vốn nhiều trang sách sẽ không thể liệt kê hết được; liệu có thể hoài nghi rằng, tôi nói rằng, khuynh hướng của những phẩm tính này nhằm thúc đẩy hữu ích và hạnh phúc của người sở hữu chúng chính là nền tảng duy nhất cho giá trị của chúng? Ai có thể phủ nhận rằng một tâm hồn luôn giữ được sự thanh thản và vui tươi bất diệt, một phẩm giá cao quý và tinh thần bất khuất, một tình cảm yêu thương và thiện chí với tất cả xung quanh; không chỉ mang lại nhiều vui sướng hơn trong chính nó, mà còn là một cảnh tượng khích lệ và đầy hứng khởi hơn so với một tâm hồn chìm trong u sầu, bị dày vò bởi lo âu, bốc lửa vì giận dữ, hay chìm đắm trong sự hèn hạ và thoái hóa cùng cực nhất? Còn những phẩm tính ngay lập tức làm hài lòng người khác, chúng tự nói lên giá trị của chúng. Và thật không may mắn, người nào chưa bao giờ cảm nhận được sức hấp dẫn của một trí tuệ hóm hỉnh hay sự hòa nhã lưu loát, của một sự khiêm tốn tinh tế hay một thái độ và cử chỉ lịch sự, tao nhã, thì quả thực người đó phải rất bất hạnh – hoặc trong tính khí, hoặc trong hoàn cảnh và ứng xử giao tiếp của mình.

 

M 9.13, SBN 278

Tôi hoàn toàn nhận thức được rằng không có gì phi triết học hơn việc chắc chắn hoặc giáo điều về bất kỳ chủ đề nào; và ngay cả khi một người có thể duy trì sự hoài nghi cực độ, thì điều đó cũng không gây hại gì cho mọi lý luận và nghiên cứu hợp lý. Tôi tin rằng, ở nơi con người tự tin và kiêu ngạo nhất, họ thường là những người sai lầm nhất, và ở đó họ buông thả cho tình cảm, vốn không có sự cân nhắc và thận trọng đúng đắn, vốn là thứ duy nhất có thể bảo vệ họ khỏi những điều phi lý nhất. Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận rằng cách liệt kê trên đã làm sáng tỏ vấn đề một cách mạnh mẽ đến mức, hiện tại, tôi không thể chắc chắn hơn về bất kỳ chân lý nào mà tôi học được từ lý lẽ và tranh luận, hơn là việc giá trị đạo đức cá nhân hoàn toàn nằm ở tính hữu ích hoặc sự dễ chịu của những phẩm chất đối với chính người sở hữu chúng, hoặc đối với những người có quan hệ với họ. Nhưng khi tôi suy ngẫm rằng, mặc dù kích thước và hình dạng của Trái Đất đã được đo đạc và phác họa, dù chuyển động của thủy triều đã được giải thích, hệ thống và chuyển động của những thiên thể đã được xác định và ngay cả cả khái niệm về vô hạn đã được tính toán, nhưng con người vẫn còn tranh luận về nền tảng của những nghĩa vụ đạo đức của họ, Khi tôi suy ngẫm về điều này, tôi phải nói, tôi lại rơi vào hoài nghi và bất định, và nghi ngờ rằng một giả thuyết rõ ràng như vậy, nếu nó là sự thật, thì đã được toàn thể loài người chấp nhận với sự đồng thuận và tán thành tuyệt đối từ lâu rồi.

 

PHẦN II.

 

M 9.14, SBN 278-9

Sau khi đã giải thích sự chấp thuận về đạo đức liên quan đến giá trị đạo đức hay đức hạnh, không còn gì khác ngoài việc ngắn gọn xem xét nghĩa vụ hữu ích của chúng ta với nó, và tìm hiểu xem liệu mỗi người, những người quan tâm đến hạnh phúc và phúc lợi của bản thân, có tìm thấy giá trị tốt nhất của người này trong việc thực hành mọi bổn phận đạo đức hay không. Nếu điều này có thể được xác định rõ ràng từ lý thuyết trên, chúng ta sẽ có sự hài lòng khi suy ngẫm rằng chúng ta đã đưa ra những nguyên lý, hy vọng rằng chúng không chỉ vượt qua được thử thách của lý luận và nghiên cứu, nhưng còn có thể góp phần vào cải thiện đời sống của con người và cải thiện đạo đức cũng như đức hạnh xã hội của họ. Và mặc dù đúng thực triết học của bất kỳ mệnh đề nào không hề tùy thuộc vào khuynh hướng thúc đẩy hữu ích xã hội của nó; nhưng một người vẫn thể hiện mình rất kém cỏi nếu đưa ra một lý thuyết – dù đúng đến đâu – nhưng phải nhìn nhận rằng nó dẫn đến những thực hành nguy hiểm và có hại. Tại sao chúng ta lại phải dò

dẫm vào những góc khuất của thiên nhiên, những nơi mà nếu bị xáo trộn, sẽ gieo rắc tai hại và hỗn loạn khắp nơi? Tại sao phải đào bệnh dịch lên từ chính hố đã chôn vùi nó? Sự khéo léo trong nghiên cứu của bạn có thể được thán phục, nhưng hệ thống của bạn sẽ bị ghét bỏ: Và ngay cả khi loài người không thể trực tiếp bác bỏ chúng, họ cũng sẽ đồng ý, ít nhất, giao phó chúng cho sự im lặng và lãng quên vĩnh viễn. Ngay cả những sự thật, nếu có hại cho xã hội, cũng sẽ bị lấn át bởi những dối trá, mặc dù sai lầm, nhưng lại mang lại lợi ích hoặc thúc đẩy phúc lợi cho người khác.

 

M 9.15, SBN 279-80

Nhưng những sự thực triết học nào có thể mang lại lợi ích cho xã hội hơn những sự thực được trình bày ở đây, những sự thực mô tả đức hạnh với tất cả sự lôi cuốn chân thực và hấp dẫn nhất của nó, và khiến chúng ta tiếp cận nó với sự dễ dàng, thân thuộc và thiện cảm? Chiếc áo choàng ảm đạm vốn nhiều nhà gót học và một số triết gia đã phủ lên nó rơi xuống; và chỉ còn lại sự dịu dàng, nhân đạo, từ thiện, niềm nở; ngay cả, vào những khoảng thời gian thích hợp, còn có vui đùa, hớn hở và vui vẻ. Nó không nói về những khổ hạnh và những kỷ luật khắc nghiệt vô ích, về đau khổ và từ bỏ bản thân. Nó tuyên bố rằng mục đích duy nhất của nó là làm cho những người hâm mộ và toàn thể loài người, trong từng khoảnh khắc hiện hữu của họ, nếu có thể, vui vẻ và hạnh phúc; và nó cũng không bao giờ sẵn lòng từ bỏ bất kỳ vui sướng nào trừ khi hy vọng được đền đáp dồi dào trong một giai đoạn khác nào đó của cuộc đời họ. Khó khăn duy nhất nó đòi hỏi, là của sự suy luận cẩn thận và công bằng về những gì sẽ mang lại hạnh phúc lớn hơn. Và nếu bất kỳ kẻ giả danh nghiêm khắc nào đến gần nó, những thù địch của vui vẻ và lạc thú—nó hoặc từ chối chúng như những kẻ đạo đức giả và lừa dối; hoặc, nếu nó chấp nhận chúng vào đoàn tùy tùng của nó, chúng vẫn đứng giữa những gì ít được ưa chuộng nhất trong số những tùy tùng cỉa nó.

 

M 9.16, SBN 280

Và quả thực, để bỏ hết những diễn đạt ẩn dụ, chúng ta từng có thể hy vọng gì khi muốn thu hút loài người vào một thực hành vốn chúng ta thú nhận là đầy khắc khổ và nghiêm ngặt? Hay lý thuyết đạo đức nào từng có thể phục vụ bất kỳ mục đích hữu ích nào, trừ khi nó có thể cho thấy, bằng một chi tiết cụ thể, rằng tất cả những nghĩa vụ vốn nó khuyến khích, đều cũng là lợi ích thực của mỗi cá nhân? Ưu điểm đặc biệt của hệ thống vừa giải thích là nó cung cấp những môi trường thích hợp cho mục đích đó.

 

M 9.17, SBN 280

Thật chắc chắn là thừa thãi, không cần phải chứng minh rằng những đức tính ngay lập tức hữu ích hoặc dễ chịu cho người sở hữu chúng là đáng mong muốn từ góc độ lợi ích cá nhân. Thực vậy, những nhà đạo đức học có thể tránh cho mình mọi công sức vốn họ thường bỏ ra khi đưa ra những bổn phận này. Việc thu thập những lập luận để chứng minh rằng sự tiết độ là có lợi và việc sa đà vào lạc thú quá mức là có hại nhằm mục đích gì? Rõ ràng, những sự quá độ này được gọi là "thói hư tật xấu" chỉ vì chúng có hại; bởi vì, ví dụ, nếu việc dùng rượu mạnh không giới hạn không làm tổn hại đến sức khỏe, tinh thần hay thể chất hơn thở không khí hay uống nước lã, thì nó cũng không phải là một hành vi xấu xa hay đáng chê trách hơn một chút nào.

 

M 9.18, SBN 280-1

Dường như cũng thừa thãi khi chứng minh rằng những đức tính khiến một người dễ chịu và dễ mến khi ở cùng mọi người - cách cư xử tốt và dí dỏm, sự đứng đắn và lịch thiệp - đáng khao khát hơn những đức tính trái ngược của chúng. Chỉ riêng lòng phù phiếm, không cần cân nhắc thêm bất kỳ điều gì khác, đã là động lực đủ để khiến chúng ta mong muốn sở hữu những thành tựu này. Không một người nào lại sẵn lòng thiếu sót điều này. Mọi thất bại của chúng ta ở đây đều xuất phát từ nền giáo dục kém, thiếu năng lực hoặc một tính cách ngoan cố và khó uốn nắn. Bạn có muốn bạn bè của mình được thèm muốn, ngưỡng mộ, theo đuổi thay vì bị ghét bỏ, khinh miệt, tránh xa không? Có ai có thể nghiêm trang dừng lại để đặt câu hỏi hoặc tranh luận về vấn đề này không?Vì không có vui sướng nào là chân thành nếu không có sự tham chiếu đến bạn đồng hành và xã hội; nên không có xã hội nào có thể dễ chịu, hay ngay cả có thể chịu đựng được, khi một người cảm thấy sự hiện diện của mình không được chào đón và nhận ra rằng xung quanh người này đều có những biểu hiện của phẫn nộ và ác cảm.

 

M 9.19, SBN 281

Nhưng tại sao, trong xã hội rộng lớn hơn của toàn thể loài người, mọi sự việc lại khác biệt so với những gì chúng ta thấy trong những nhóm giao lưu nhỏ và những tụ họp thân hữu cá nhân? Tại sao chúng ta lại nghi ngờ rằng những đức tính rộng lớn hơn của lòng nhân đạo, sự hào phóng và lòng nhân ái lại đáng mong muốn cho hạnh phúc và lợi ích của chính chúng ta hơn là những phẩm chất hẹp hòi hơn như sự dí dỏm và lịch sự? Liệu chúng ta có sợ rằng những tình cảm xã hội rộng lớn này sẽ cản trở lợi ích cá nhân nhiều hơn những hoạt động khác, và rằng chúng không thể thỏa mãn được nếu không có sự hy sinh quan trọng về danh dự hay lợi ích? Nếu vậy, chúng ta đã không được hiểu đúng về bản chất của những tình cảm của con người, và để bản thân bị ảnh hưởng nhiều hơ bởi những phân biệt trong lời nói hơn là bất kỳ sự khác biệt thực sự nào.

 

M 9.20, SBN 281

Bất kể mâu thuẫn nào mà người ta thường cho là giữa cảm xúc hay khuynh hướng vị kỷ và xã hội, thực ra chúng không đối lập nhau hơn vị kỷ và tham vọng, vị kỷ và trả thù, hay vị kỷ và phù phiếm. Điều cần thiết là phải có một khuynh hướng ban đầu nào đó, để làm cơ sở cho tình cảm vị kỷ [5], bằng mang lại sự thích thú cho những mục tiêu nó theo đuổi; và không gì phù hợp cho mục đích này hơn lòng từ thiện hay lòng nhân đạo. Của cải được chi tiêu vào sự thỏa mãn này hay sự thỏa mãn khác: Kẻ keo kiệt, người tích lũy thu nhập hàng năm của mình và cho vay lấy lãi, thực ra đã chi tiêu vào sự thỏa mãn lòng tham của mình. Và sẽ rất khó để cho thấy tại sao một người lại trở thành kẻ thua lỗ nhiều hơn bởi một hành động hào hiệp, hơn là bởi bất kỳ phương pháp tiêu pha nào khác; bởi vì, xét cho cùng, điều tối đa vốn người này có thể đạt được, bằng tình cảm vị kỷ phức tạp nhất, chỉ là sự thỏa mãn một ham muốn hoặc nuông chiều một tình cảm nào đó.

 

M 9.21, SBN 281-2

Bây giờ, nếu đời sống sẽ hoàn toàn tẻ nhạt và nhàm chán nếu không có tình cảm, hãy tưởng tượng một người có thể định hình tính cách của chính minh hoàn toàn theo ý muốn. Sau đó, người này có thể cân nhắc kỹ lưỡng xem mình sẽ chọn những ham muốn hay khát khao nào làm nền tảng cho hạnh phúc và niềm vui của mình. Người này sẽ nhận thấy rằng, mọi tình cảm, khi được thỏa mãn bởi thành công, đều mang lại sự hài lòng tỷ lệ thuận với cường độ của nó; nhưng bên cạnh thuận lợi này, có chung với tất cả, cảm giác ngay lập tức về lòng từ thiện và tình thân hữu, lòng nhân đạo và sự tử tế, thì ngọt ngào, êm dịu, dịu dàng và dễ chịu, không tùy thuộc vào vận may hay hoàn cảnh bên ngoài. Những đức hạnh này còn đi kèm với một ý thức hay ký ức dễ chịu, và giúp chúng ta bình yên với chính mình cũng như với người khác, bằng cách cho phép chúng ta suy ngẫm về việc đã làm tròn bổn phận của chúng ta cho nhân loại và xã hội.Và mặc dù tất cả mọi người đều ghen tị với thành công của chúng ta trong việc theo đuổi lòng tham và tham vọng; nhưng chúng ta gần như chắc chắn về thiện chí và những lời chúc tốt đẹp của họ, miễn là chúng ta kiên trì trên con đường đức hạnh và tận tâm thực hiện những kế hoạch và mục đích cao cả. Còn tình cảm nào khác vốn ta có thể tìm thấy nhiều hữu ích hội tụ đến vậy: một tình cảm dễ chịu, một lương tâm dễ chịu, một danh tiếng tốt? Tuy nhiên, con người tự nhiên nhận thức được những chân lý này. Sự thất bại của họ trong việc thực hiện nghĩa vụ với xã hội không phải xuất phát từ việc họ từ chối, không mong muốn bản thân trở nên hào phóng, thân thiện và nhân đạo, nhưng xuất phát từ thực tế đơn giản là họ không thực sự cảm thấy họ như vậy.

 

M 9.22, SBN 282-3

Khi đối xử với thói hư tật xấu một cách thẳng thắn nhất và nhượng bộ nó hết mức có thể, chúng ta phải công nhận rằng, hiếm khi có lý do gì để ưu tiên nó hơn đức hạnh, nếu mục tiêu của chúng ta là lợi ích cá nhân.; ngoại trừ, có lẽ, trong trường hợp công lý, khi một người, khi nhìn nhận sự việc dưới một góc độ nào đó, có thể cảm thấy mình thua thiệt khi trung thực. Và mặc dù người ta cho rằng, nếu không có sự tôn trọng tài sản, thì không một xã hội nào có thể hiện hữu. Tuy nhiên, vì các vấn đề của con người thường được quản lý không hoàn hảo, một kẻ gian xảo đôi khi có thể tưởng tượng rằng một hành vi gian dối hoặc phản bội sẽ làm tăng tài sản của mình mà không gây tổn hại nghiêm trọng đến trật tự xã hội. Câu nói trung thực là phương sách tốt nhất có thể là một quy luật tổng quát tốt, nhưng có thể có nhiều ngoại lệ. Có lẽ con đường khôn ngoan nhất cho một người thực tế là tuân theo quy tắc chung của sự trung thực đồng thời tận dụng các cơ hội khi ngoại lệ xảy ra.

 

M 9.23, SBN 283

Tôi phải thú nhận rằng, nếu một người nghĩ rằng lý luận này rất cần một trả lời, thì sẽ hơi khó để tìm được bất kỳ trả lời nào, khiến với người này có vẻ hài lòng và thuyết phục với nó. Nếu trái tim người này không phản kháng lại những châm ngôn tai hại như vậy, nếu người này không cảm thấy ngần ngại trước những suy nghĩ về sự đồi trụy hay đê tiện, thì người này thực sự đã đánh mất một động lực đáng kể cho đức hạnh; và chúng ta có thể mong đợi rằng, hành động của người này sẽ chịu trách nhiệm cho sự suy đoán của chính mình. Nhưng trong tất cả những bản chất ngây thơ, sự phản với sự phản bội và gian lận quá mạnh mẽ để có thể bị cân bằng bởi bất kỳ quan điểm nào về lợi nhuận hay hữu ích tiền bạc. Sự bình yên nội tâm, sự thỏa mãn của sự chính trực, và khả năng xem xét lại hành vi của mình với sự mãn nguyện; đây là những điều kiện rất cần thiết cho hạnh phúc, và sẽ được trân trọng và vun đắp bởi mọi con người trung thực, những người cảm thấy tầm quan trọng của chúng.

 

M 9.24, SBN 283

Hơn nữa, một người như vậy cũng thường xuyên cảm thấy thỏa mãn khi thấy những kẻ gian manh, với tất cả sự xảo quyệt và tài năng của chúng, bị chính những nguyên tắc của chúng phá vỡ. Trong khi chúng định lừa đảo một cách thận trọng và bí mật, một cơ hội hấp dẫn nào đó xuất hiện, bản chất con người tỏ ra yếu đuối, và chúng rơi vào bẫy. Từ đó, chúng không bao giờ có thể thoát khỏi hậu quả mà không hủy hoại hoàn toàn danh tiếng và đánh mất mọi tín nhiệm và tin cậy trong tương lai với loài người.

 

M 9.25, SBN 283-4

Nhưng nếu họ từng bí mật và thành công đến vậy, người lương thiện, nếu người này có chút ít triết lý, hay thậm chí là sự quan sát và suy ngẫm thông thường, sẽ nhận ra rằng cuối cùng, chính họ mới là những kẻ ngốc nghếch nhất, và đã hy sinh niềm vui vô giá của một nhân cách chân thực, ít nhất là với chính họ, để đổi lấy những món đồ chơi phù phiếm và trang trí vô giá trị. Những gì cần thiết để đáp ứng những nhu cầu tự nhiên của con người thật ra ít ỏi biết bao? Và khi nói đến lạc thú, làm sao ta có thể so sánh những thú vui không thể mua được của trò chuyện, giao lưu, học tập, sức khỏe, hay vẻ đẹp giản dị của thiên nhiên, và trên hết, sự mãn nguyện bình yên đến từ việc suy ngẫm về hành vi của chính mình. Tôi tự hỏi, có thể so sánh thực sự thế nào giữa những thứ như vậy với những thú vui xa hoa, hão huyền, phù phiếm? Những thú vui tự nhiên này thực sự vô giá – bởi vì chúng gần như chẳng tốn kém gì để có được, và bởi vì chúng vượt xa bất kỳ giá trị nào chúng mang lại về hưởng thụ.

 

 

----------------------------------------------------------------

 

M 9.2n53, SBN 269

22.    Những phẩm tính có lợi cho người khác.

 

M 9.2n54, SBN 269

23.    Những phẩm tính có ích cho bản thân người đó.

 

M 9.2n55, SBN 269

24.    Những phẩm tính được người khác chấp nhận ngay lập tức.

 

M 9.2n56, SBN 270

25.    Những phẩm tính vốn bản thân người đó dễ chấp nhận.

 

M9.8n57

26.    Xem GHI CHÚ [NN].

 

M 9.8n57.1, SBN 274-5

Dường như chắc chắn, cả về lý trí lẫn kinh nghiệm, rằng một kẻ man rợ thô lỗ, thiếu học thức đánh giá tình yêu và lòng căm thù của người này gần như hoàn toàn dựa trên việc ai đó giúp đỡ hay làm hại cá nhân hắn, và chỉ có một khái niệm mơ hồ về bất kỳ quy tắc hay hệ thống ứng xử chung nào. Hắn căm ghét kẻ đối đầu với hắn trong trận chiến một cách dữ dội - không chỉ trong khoảnh khắc (điều gần như không thể tránh khỏi), mà còn mãi về sau; và hắn sẽ không hài lòng cho đến khi trả thù được tận gốc, với trừng phạt và trả thù khắc nghiệt nhất. Nhưng chúng ta, đã quen với xã hội và với những suy ngẫm rộng hơn, nhận ra rằng người này đang phục vụ đất nước và cộng đồng của hắn; rằng bất kỳ người nào, trong cùng một tình cảnh, cũng sẽ làm như vậy; rằng bản thân chúng ta, trong những hoàn cảnh tương tự, cũng tuân theo một ứng xử tương tự; nói tổng quát, xã hội loài người được hỗ trợ tốt nhất dựa trên những châm ngôn như vậy. Và bằng những giả định và quan điểm này, ở một mức độ nào đó, chúng ta sửa chữa những tình cảm thô lỗ và hẹp hòi của chúng ta. Và mặc dù phần lớn tình thân hữu và thù hận của chúng ta vẫn được điều chỉnh bởi những cân nhắc riêng tư về hữu ích và tác hại, ít nhất chúng ta cũng tỏ lòng tôn kính với những quy luật chung vốn chúng ta đã quen tôn trọng. Chúng ta thường bóp méo hành động của đối thủ bằng cách gán ghép cho họ những động cơ ác ý hoặc bất công, chỉ để thoả mãn những cảm xúc phát sinh từ lòng vị kỷ và lợi ích riêng tư. Khi trái tim đầy giận dữ, nó chẳng bao giờ thiếu những cớ để biện minh—dù đôi khi những lý lẽ ấy lố ​​bịch như trường hợp của Horace, người sau khi suýt bị một cây đổ đè bẹp, lại vin vào tội 'giết cha' để buộc tội kẻ trồng cây. [6]

 

 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(May/2025)

(Còn tiếp... )

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 



[1] Cleanthes ở đây không ám chỉ cùng một nhân vật xuất hiện trong Những Đàm thoại về Tôn giáo Tự nhiên của Hume. Trong Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức này, Hume dùng cái tên này một cách tượng trưng, ​​theo một quy ước cổ điển, để mô tả một con người lý tưởng, đức hạnh và nhân cách tốt đẹp – một hiện thân của sự xuất sắc về đạo đức và xã hội hơn là một nhân vật triết học cụ thể.

[2] Baltasar Gracián (1601–1658) là một thày chăn chiên dòng Jesuit người Spain, một triết gia đạo đức, nổi tiếng với tác phẩm The Art of Worldly Wisdom, một tập hợp những châm ngôn về sự thận trọng, đức hạnh và cách cư xử tao nhã. Baldassare Castiglione (1478–1529) là một cận thần người Ý và là tác giả của The Book of the Courtier, một cuốn cẩm nang thời Phục Hưng mô tả một quý ông lý tưởng – lịch thiệp, dí dỏm và ngay thẳng về mặt đạo đức.

[3] Hume đang mỉa mai khi ông nhận xét về “những kẻ cuồng tín u ám, đầu óc rỗng tuếch”. Ông ám chỉ đến việc Hội nhà thờ Kitô, và đôi khi là những truyền thống tôn giáo khác, đã phong thánh cho những nhà khổ hạnh hoặc nhà thần bí cực đoan mà hành vi của họ có vẻ cuồng tín hoặc buồn tẻ đối với người bình thường. Ví dụ có thể kể đến thánh chiên Simeon Stylites, người đã dành hàng thập kỷ trên đỉnh một cột đá giữa sa mạc như một hành động sám hối cực độ, và thánh chiên Anthony the Great, người đã hoàn toàn ẩn mình vào nơi hoang dã, ăn chay và chịu đựng những thử thách khắc nghiệt. Ngay cả những nhân vật như thánh chiên Phanxicô thành Assisi, được ngưỡng mộ vì sự hiền lành, cũng có thể có vẻ “tu sĩ” đối với Hume vì sự nghèo khó và tự chối bỏ bản thân của ông, trong khi những nhà thần bí như thánh chiên Teresa thành Ávila và thánh chiên Catherine thành Siena được biết đến với những linh ảnh và sự tự hành xác nghiêm ngặt. Quan điểm của Hume không phải là để chỉ ra những cá nhân cụ thể, mà là để làm nổi bật một kiểu người: nhà khổ hạnh tôn giáo tự hành xác, từ bỏ cuộc sống trần tục và những thú vui tự nhiên. Một người như vậy có thể được tôn vinh là thánh sau khi chết, nhưng khi còn sống hiếm khi được chào đón trong xã hội bình thường, ngoại trừ những người cũng u ám hoặc cuồng tín như vậy.

[4] Solon (khoảng 638–558 TCN), nhà lập pháp Athens, đã ban hành một đạo luật trừng phạt hoặc tước quyền công dân của những người giữ thái độ trung lập trong những cuộc xung đột dân sự (stasis) – những cuộc đấu tranh nội bộ ở Athens giữa những phe phái quý tộc và bình dân trong thế kỷ 7–6 TCN. Đây là những cuộc tranh giành quyền lực chính trị và trật tự xã hội, chứ không phải chiến tranh giữa những quốc gia. Những cải cách của Solon, bao gồm cả đạo luật này, nhằm mục đích ổn định xã hội và ngăn chặn sự hỗn loạn. Điều này được thảo luận trong những nguồn tài liệu cổ như Plutarch, Lives: Solon XX (khoảng 46–119 CN).

[5] Những phẩm tính cá nhân chủ yếu mang lại lợi ích cho bản thân hơn là cho người khác.

[6] Hume đang ám chỉ một đoạn hài hước trong tác phẩm của nhà thơ La Mã Horace (Satires /Trào phúng, II.3). Horace kể về lần suýt bị một cây đổ đè trúng người, rồi trong cơn tức giận, ông đùa rằng muốn buộc tội kẻ trồng cây ấy tội 'giết cha'—một cáo buộc hoang đường và phi lý đến mức lố bịch. Bằng ví dụ này, Hume muốn chỉ ra rằng khi tức giận, con người sẵn sàng bịa ra bất kỳ cáo buộc nào—dù vô lý hay quá đà—chỉ để biện minh cho sự phẫn nộ của mình.