Sunday, August 13, 2017

Plato – Republic (06)

Plato
The Republic 
(Πλάτων    Πολιτεία)












QUYỂN 4

Tóm lược: Quyển IV, 419a-434c

Adeimantus ngắt lời Socrates để chỉ ra rằng làm một người cai trị nghe có vẻ bất hạnh đáng ghét. Vì người cai trị không có tài sản riêng, người này không bao giờ có thể đi chơi, giữ một người tình riêng, hay làm những điều mọi người nghĩ sẽ khiến họ sung sướng. Socrates trả lời bằng cách nhắc nhở những bạn ông rằng mục tiêu của họ trong việc xây dựng thành phố này không phải để làm bất kỳ một nhóm nào được sung sướng nhưng với thiệt hại cho bất kỳ một nhóm nào khác, nhưng để làm thành phố, như một tổng thể, thì sung sướng như nó có thể được sung sướng. Chúng ta không thể đem cho những giám hộ loại sung sướng khiến họ có thể trở thành một gì đó khác hơn là những người giám hộ. Ông so sánh trường hợp này với việc đắp một pho tượng. Màu sắc đẹp nhất trên trần gian, ông nói không rào đón, là màu tím. Vì vậy, nếu ý định của chúng ta là làm cho mắt của pho tượng càng đẹp càng khéo, chúng ta sẽ sơn màu tím. Nhưng, điều này sẽ làm giảm cái đẹp của pho tượng như một tổng thể, vì không mắt người nào thực sự màu tím, thế nên chúng ta không vẽ mắt tượng màu tím. Trên pho tượng, như trong thành phố, chúng ta phải giải quyết với từng phần một cách hợp lý, để tình trạng tốt của toàn bộ yếu tốt nhất.

Socrates tiếp tục nói về một số đề tài liên quan đến lối sống của những người giám hộ. Ông bảo Adeimantus, người yêu-tiền bạc, rằng sẽ hoàn toàn không có giàu có hay nghèo đói gì hết tất cả trong thành phố, vì sẽ không lưu hành tiền. Adeimantus phản đối rằng một thành phố không có tiền không thể tự bảo vệ mình chống lại những xâm lăng, nhưng Socrates nhắc nhở Adeimantus rằng thành phố của chúng ta sẽ có những chiến binh giỏi nhất và chỉ ra rằng bất kỳ thành phố lân cận nào tất cũng vui sướng đến trợ giúp, nếu chúng ta hứa sau chiến tranh sẽ cho họ tất cả những chiến lợi phẩm. Socrates giới hạn quy mô của thành phố, báo trước rằng đừng để nó trở nên quá lớn khiến nó không còn được cai quản tốt trong hệ thống hiện hành. Ông đề nghị rằng những người giám hộ phải đặc biệt gìn giữ sự giáo dục cơ bản dành cho chính họ trên hết, và nói rằng họ chia sẻ tất cả mọi sự vật việc giữa họ với nhau, gồm cả những người vợ và những đứa con. Ông tuyên bố rằng thành phố công chính không dùng đến luật pháp. Nếu giáo dục của những người giám hộ tiến hành như hoạch định, khi đó những giám hộ sẽ trong một vị thế để quyết định bất cứ vấn đề nào phát sinh từ chính trị. Tất cả những gì chúng ta nghĩ như một vấn đề của luật pháp có thể được dành cho sự phán quyết của những nhà cai trị nếu họ đã được giáo dục thích hợp.

Socrates tuyên bố thành phố công chính đã được làm xong. Vì thành phố này đã được tạo ra để là thành phố tốt nhất có thể có được, chúng ta có thể được chắc chắn rằng nó có tất cả những phẩm hạnh. Để xác định những phẩm hạnh này, tất cả những gì chúng ta cần làm là nhìn vào thành phố của chúng ta và nhận ra chúng. Thế nên, bây giờ chúng ta sẽ tìm mỗi của bốn phẩm hạnh: trí tuệ, can đảm, chừng mực điều độ và công chính.

Đầu tiên, chúng ta tìm thấy sự khôn ngoan. Khôn ngoan nằm ở những người giám hộ vì sự hiểu biết của họ về cách thành phố nên được điều hành như thế nào. Nếu những người giám hộ đã không nắm quyền cai trị, nếu nó đã là một chế độ dân chủ, hãy tạm nói, phẩm hạnh của họ sẽ không chuyển vào thành phẩm hạnh của thành phố. Nhưng vì họ đảm trách việc cai trị, khôn ngoan của họ trở thành phẩm hạnh của thành phố. Can đảm nằm ở những người giám hộ giữ vai trò trợ tá. Chỉ có can đảm của họ mới được kể như một phẩm hạnh của thành phố vì họ là những người phải chiến đấu cho thành phố. Một người làm ruộng can đảm, hay ngay cả một người cai trị can đảm, sẽ không làm được gì tốt đẹp cho thành phố. Chừng mực điều độ và công chính, trái với khôn ngoan và can đảm, được lan tỏa khắp thành phố. Chừng mực điều độ được tìm thấy trong sự đồng thuận về ai sẽ cai trị thành phố, và công chính, cuối cùng là sự bổ túc cho sự tốt đẹp hoàn toàn của nó – nguyên tắc của sự chuyên môn hóa, – qui luật rằng tất cả mọi người đều làm công việc mà họ thích hợp nhất với nó.

Như thế bây giờ chúng ta đã đạt được một trong hai ý định của chúng ta, ít nhất là phần nào. Chúng ta đã xác định công chính trên bình diện của toàn thành phố. Công việc tiếp theo của chúng ta là xem liệu có một phẩm hạnh tương đồng nào trong trường hợp của cá nhân hay không.

Phân tích: Quyển IV, 419a-434c
Cuối cùng, Socrates đã đưa ra một định nghĩa về công chính. Định nghĩa này mang đậm dấu giống như hai định nghĩa công chính đã đưa ra trong Quyển I. Cephalus đã bạo dạn nói rằng công chính là sự tôn trọng những nghĩa vụ pháp lý, trong khi Polemarchus, con trai ông, nêu ý rằng công chính là tương đương với giúp đỡ những người bạn và gây hại cho những thù địch của mình. Hai định nghĩa này được nối với nhau bởi sự bắt buộc của việc cung ứng những gì mang nợ, hay cho đem cho mỗi người những gì là thích hợp. Cùng một mệnh lệnh này thấy cũng diễn tả khác biệt trong định nghĩa công chính của Plato – công chính như một sự dàn xếp chính trị trong đó mỗi cá nhân đóng vai trò thích hợp. Những gì mỗi người mang nợ (với xã hội, cộng đồng) thì được đem trả tất cả cùng một lúc. Mỗi người được giao một vai trò trong xã hội vốn thích hợp nhất với bản chất của họ và phục vụ tốt nhất cho xã hội như một toàn thể.

Trong một ý hướng như thế, Polemarchus và Cephalus đã không sai lạc quá xa. Tuy nhiên, khi đi theo những khái niệm truyền thống, họ đã nghĩ về công chính như là một tập hợp của những hành động, thay vì như một cấu trúc cho xã hội, một hiện tượng lan toả trên khắp một thành phố như một toàn thể.

Ngoài định nghĩa về công chính, chúng ta cũng có những định nghĩa của bốn phẩm hạnh kia trong đoạn này. (Phẩm hạnh) can đảm của thành phố, Socrates nói với chúng ta, nằm trong những giám hộ giữ vai trò trợ tá, vì chỉ sự can đảm của họ sẽ tác động vào thành phố như một toàn thể. Tuy nhiên, ngay sau khi đưa ra tuyên bố này, ông tiếp tục nói với chúng ta rằng những gì có trong những giám hộ trợ tá, không chỉ đơn giản là can đảm nhưng cũng còn một gì đó ông gọi là “can đảm dân sự”. Nhiều học giả đã giải thích can đảm dân sự như một loại can đảm hạng nhì. Những gì những giám hộ trợ tá có, Socrates nói với chúng ta, là những tin tưởng đúng thực về những gì đáng sợ và những gì không đáng sợ. Can đảm của họ dựa trên tin tưởng của họ, thay vì kiến thức. Về sau trong tập sách, ông chỉ ra rằng phẩm hạnh thực sự phải được xây dựng trên kiến thức, cho thấy rằng phẩm hạnh dựa trên thói quen hay tin tưởng và không phải kiến thức sẽ thất bại nếu sự việc trở nên quá khó khăn. Vì chỉ những người giám hộ mới có kiến thức, chỉ những người giám hộ mới có thể thực sự là có phẩm hạnh, hay là can đảm.

Tóm lược Quyển IV, 435d-hết
Bây giờ Socrates đã xác định xong công chính xã hội, ông quay sang tìm công chính cá nhân. Công chính trong cá nhân, như trong thành phố, liên quan đến quan hệ chính xác về quyền lực giữa những phần, với mỗi phần đóng vai trò thích hợp của nó. Trong cá nhân, những “phần” không phải là những tầng lớp của xã hội; Thay vào đó, chúng là những phương diện của hồn người – hay những nguồn của ham muốn.

Để giải thích công chính cá nhân tương đồng với công chính chính trị xã hội như thế nào, Socrates phải tuyên bố rằng mỗi hồn người có ba phần chính xác. Bằng cách liệt kê những ham muốn khác nhau của con người, ông xác định một phần của hồn người dựa trên lý trí có khát vọng theo đuổi chân lý, một phần của hồn người có khát vọng theo đuổi vinh dự, và một phần đói ăn thèm uống của hồn người có khát vọng theo đuổi mọi sự vật việc khác, gồm thức ăn, thức uống, tình dục, và đặc biệt là tiền bạc. Ba phần này của hồn người tương ứng với ba tầng lớp trong thành phố công chính. Phần thèm-ăn, hay phần yêu-tiền, là phương diện của hồn người nổi bật nhất trong số tầng lớp sản xuất; Tinh thần hay phần yêu vinh dự thì nổi bật nhất trong số những người giám hộ trợ tá; và lý trí, hay phần yêu-kiến thức, chiếm ưu thắng trong số những người giám hộ.

Những quan hệ công chính giữa ba phần của hồn người phản chiếu những quan hệ công chính giữa những tầng lớp của xã hội. Trong một người công chính, phần dựa trên lý trí của hồn người cai trị những phần khác, với phần tinh thần đóng vai trợ giúp để giữ sự đói ăn thèm uống thông tục trong vòng kiểm soát. Hãy so sánh điều này với thành phố trong đó những người bảo vệ yêu sự thật cai trị, với những người trợ tá yêu danh dự đóng vai giúp đỡ họ, để giữ những người sản xuất yêu tiền bạc trong trong vòng kiểm soát. Khi nói một phần của hồn người “cai trị” những phần kia, có nghĩa là toàn bộ hồn một người đều theo đuổi những ước muốn của phần đó. Trong một hồn người được tinh thần cai trị, lấy thí dụ, toàn bộ hồn người hướng đến sự có được danh dự. Trong một hồn người sự thèm-ăn thông tục cai trị, toàn bộ hồn người nhắm đến sự thỏa mãn những thèm-ăn này, cho dù đó là thức ăn, thức uống, tình dục, hàng hóa vật chất tinh xảo, hay chồng chất của cải giàu có. Trong một hồn người công chính, hồn người thì hoàn toàn hướng đến sự thỏa mãn bất cứ gì lý trí ham muốn kiến thức tạo ra.

Bây giờ, Socrates đã hoàn thành mục tiêu đầu tiên của mình: ông đã xác định công chính trên cả hai bình diện chính trị và cá nhân. Tuy nhiên, trong khi đem cho một giải thích về công chính, ông đã chệch khỏi những khái niệm trực giác của chúng ta về phẩm hạnh này là gì. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ về công chính như một tập hợp những hành động, nhưng Socrates tuyên bố rằng công chính thực sự là một kết quả của cấu trúc của hồn người. Sau khi xác định công chính cá nhân, ông chứng minh rằng một cá nhân, người có hồn của mình trong sự xếp đặt đúng sẽ cư xử thuận hợp với những định mức trực giác của công chính. Ông cần cho thấy rằng khái niệm về công chính chúng ta vừa mới tìm đến được thì không ngược lại với những trực giác của chúng ta – rằng khái niệm này cho thấy vị trí và trạng thái những trực giác của chúng ta và giải thích chúng. Socrates chỉ ra rằng vì cá nhân công chính của chúng ta được một lòng yêu sự thật cai trị, người này sẽ không trong những gông cùm của thèm muốn, tham lam, hay khao khát vinh dự. Vì lý do này, Socrates tuyên bố, chúng ta có thể yên tâm rằng người này sẽ không bao giờ ăn cắp, phản bội bạn bè hay thành phố của mình, phạm tội ngoại tình, coi thường cha mẹ, vi phạm tuyên thệ hay thoả thuận, bỏ bê những vị gót, hay thực hiện bất cứ hành động nào khác vốn thông thường xem là bất công. Lòng yêu sự thật mạnh mẽ của người này làm yếu những thúc dục có thể dẫn đến tệ hại hay tật xấu.

Socrates kết thúc quyển IV bằng khẳng định rằng công chính xem như ngang bằng với sự lành mạnh của hồn người: một hồn người công chính là một hồn người với những phần được xếp đặt ứng hợp, và do đó là một hồn người lành mạnh. Trái lại, một hồn người bất công là một hồn người không lành mạnh. Với sự kiện này, chúng ta bây giờ trong một vị trí có ít ngờ vực nhất rằng để được đền đáp để là công chính. Xét cho cùng, chúng ta đã thừa nhận rằng sức khoẻ là một gì đó tự thân nó đáng mong muốn, do đó nếu công chính là sức khoẻ của hồn người thì điều đó cũng đáng mong muốn. Plato cảm thấy rằng ông vẫn chưa sẵn sàng để làm cho biện luận thành ủng hộ sự đáng giá của công chính. Ông tạm hoãn những bằng chứng dứt khoát cho đến tận quyển IX.

Phân tích: Quyển IV, 435d-hết
Từ ‘công chính’ được Plato áp dụng cho cả những xã hội và những cá nhân, và chương trình tổng quát trong Republic của Plato trước hết là giải thích khái niệm về công chính chính trị, sau đó diễn dịch thành một khái niệm tương đồng về công chính cá nhân. Plato định nghĩa công chính chính trị như thực thể được thừa kế từ cấu trúc. Một xã hội bao gồm ba tầng lớp người chính – những người sản xuất, những người phụ tá, và những người giám hộ. Xã hội công chính bao gồm trong những quan hệ đúng và cố định giữa ba tầng lớp này. Mỗi trong ba tầng lớp này phải làm công việc thích hợp, và chỉ công việc đó, và mỗi phải là ở trong đúng vị trí của quyền lực và của tác động trong quan hệ với tầng lớp khác.

Trong phần này, Plato bắt đầu bằng cho thấy rằng ba tầng lớp của xã hội có những tương đồng thấy trong hồn của mỗi cá nhân. Nói cách khác, hồn người, giống như thành phố, là một thực thể ba phần. Cá nhân công chính có thể được định nghĩa trong tương đồng với xã hội công chính; ba phần của hồn người đều cố định trong những quan hệ thiết yếu của quyền lực và tác động. Để làm cho tuyên bố này hoạt động, Plato phải chứng minh rằng thực sự hồn người có ba phần.

Có hai chân đứng riêng biệt hỗ trợ của luận chứng về hồn người có ba phần, và quan hệ giữa chúng thì không rõ, khó hiểu. Chân đứng hỗ trợ thứ nhất cố gắng để thiết lập sự hiện diện của ba tập hợp riêng biệt gồm những mong muốn trong mỗi cá nhân. Chân thứ hai biện luận rằng ba tập hợp của những mong muốn này tương ứng với ba nguồn mong muốn khác nhau, ba phần riêng biệt của hồn người. Kết luận sau cùng là mỗi cá nhân có một hồn người ba phần. Plato đã phân loại những mong muốn, vì để thiết lập chứng minh rằng có ba phần riêng biệt của hồn người mà không thiết lập trước hết rằng có ba loại mong muốn này, sẽ không hiệu quả về mặt hình ảnh hay thuyết phục. Chân đứng hỗ trợ đầu tiên nối sự chuyển dịch từ bình diện xã hội sang bình diện cá nhân bằng cách cho thấy những thuộc tính của nhóm bắt gốc từ những thuộc tính của cá nhân.

Tại sao là điều quan trọng cho Plato để làm cho rõ rằng ba loại này của mong muốn có mặt trong mỗi cá nhân tương ứng với ba nguồn độc lập của mong muốn? Tại sao không là đủ để chủ trương rằng ba sức mạnh này đều được cùng một chủ thể phô bày ở những thời điểm khác nhau, nhưng không tương ứng với ba phần riêng biệt của hồn người?

Sự phân biệt này cho phép ba loại của mong muốn được thực hiện đồng thời. Công chính chính trị là một thuộc tính có tính cấu trúc, gồm trong những quan hệ của ba phần thiết yếu. Những quan hệ tạo thành sự hài hòa chính trị thì cố định và tĩnh trong cùng một ý nghĩa như những tỷ lệ toán học tạo nên sự hài hòa âm nhạc. Trong mỗi cá nhân, mặc dù những mong muốn đến và đi, quan hệ giữa những phần của mong muốn khác nhau vẫn cố định. Sự phân chia ba phần của hồn người là điều cốt yếu đối với dự án tổng thể của Plato nhằm đưa ra cùng một loại giải thích về công chính cho dù áp dụng với xã hội hay với cá nhân.

Plato bắt đầu lập luận của ông về hồn người ba phần bằng cách nêu lên một tiêu chuẩn cho việc ấn định sự cá biệt. Cùng một sự vật việc không thể cùng một lúc chịu ảnh hưởng theo hai cách trái ngược nhau (436c). Như những cặp của những đối lập, ông bao gồm “đồng ý và chống đối, muốn có một gì đó và từ chối nó, lấy một gì đó và đẩy nó đi” (437b). Plato biện luận cho sự đúng thực của tuyên bố này bằng cách đưa ra những tương đồng từ hành vi của cơ thể – một phương pháp có vẻ như không chính đáng, với điều kiện ông muốn sử dụng nguyên tắc để áp dụng cho những khía cạnh của hồn người (đặc biệt, chống lại những thèm muốn) không phải với những đối tượng vật chất.

Để làm bước nhảy vọt từ những quan sát về những sức mạnh và những mong muốn đến những kết luận về những phần của hồn người, Plato dựa luận chứng trước sau trên một luận điệu siêu hình bị che dấu. Nơi nào có ham muốn, sẽ có tác nhân của ham muốn: đó là sự vật việc được ham muốn. Bằng cách sử dụng tiền đề này và tiêu chuẩn cho việc ấn định sự cá biệt, ông sẽ đi đến ba phần riêng biệt của hồn người, tương ứng với ba phương diện vốn ông đã xác định bên trong thành phố.

Plato cố gắng trước tiên để thiết lập sự có mặt của một phần thuần tuý đói ăn thèm uống của hồn người bằng cách dùng phương pháp này. Khát là một ham muốn. Có một chủ thể của ham muốn này. Khát là ham muốn thức uống không có giới hạn rõ rệt – nghĩa là, chỉ uống, nhưng không uống thức uống nào đặc biệt (437e). Bây giờ đi đến một lôgích ngoài đề, mục đích của nó là để loại trừ sự kết hợp những sức mạnh lý trí và đói ăn thèm uống tự nhiên để thoả mãn nhu cầu vật chất trong cùng một chủ thể. Kết quả của lôgích ngoài đề này là rằng nếu sự thật về A thì tương đối với sự thật về B, khi đó nếu B thì có giới hạn rõ rệt theo một cách nào đó, một cách tương đồng A cũng phải có giới hạn rõ rệt (438a-e). Do đó, tác nhân của mong muốn ham muốn uống thì cũng không có giới hạn rõ rệt (439b).

Vì tác nhân mong muốn uống thức uống không có giới hạn rõ rệt, thay vì là thức uống tốt, hay thức uống giải khát lành mạnh, vv ..., không thể biện luận rằng chủ thể này là một kết hợp của những sức mạnh và đói ăn thèm uống hợp lý. Chủ thể tương ứng với khát thì được đặc trưng bởi sự thúc đẩy thuần túy động vật, không có sự kỳ thị phân biệt hợp lý. Mặt khác, nếu muốn uống thức uống về mặt lý thuyết không thể tách rời khỏi ham muốn thức uống tốt hay có lợi cho sức khoẻ, thì sẽ không có sự đói ăn thèm uống thuần tuý, và tương ứng không có chủ thể đói ăn thèm uống thuần túy.

Mong muốn muốn uống thì đại diện cho cả một lớp của những ham muốn đói ăn thèm uống. bắt nguồn từ cùng một tác nhân. Những ham muốn đói ăn thèm uống khác gồm đói và thèm khát tình dục. Chủ thể đói ăn thèm uống thức ăn, thức uống và tình dục, những không có giới hạn rõ rệt này là phần đói ăn thèm uống của hồn người (437c). Plato cảm thấy không cần phải thiết lập rằng những tác nhân tương tự chịu trách nhiệm cho những đói ăn thèm uống khác nhau, mặc dù rõ ràng có liên quan. Không có lý do để đòi hỏi cho sự xác định những tác nhân của đói ăn thèm uống, nhưng chỉ cho sự tách biệt của chúng.

Kế tiếp, Plato cố gắng để cô lập phần lý trí của hồn người. Ông nói rằng nếu có một mong muốn chống lại mong muốn đói ăn thèm uống, thì có một tác nhân khác của mong muốn Sau đó ông đưa ra tuyên bố duy nghiệm rằng đôi khi có những người khát uống nhưng là người không muốn uống thức uống (439c). Do đó, có một tác nhân mong muốn để uống, và một tác nhân khác mong muốn để không-uống.

Plato sau đó đưa ra một tuyên bố duy nghiệm khác – rằng những mong muốn chống đối đói ăn thèm uống luôn luôn xuất phát từ suy nghĩ lý trí (439d). Ông kết luận rằng những mong muốn của tác nhân thứ hai đến từ suy nghĩ lý trí. Bây giờ ông tin rằng mình đã xác định một chủ thể thuần tuý đói ăn thèm uống và một chủ thể thuần túy lý trí.

Plato đã không biện minh được khi khẳng định rằng lý trí luôn luôn chống đối đói ăn thèm uống. Điều là khá dễ dàng để mường tượng của một tình cảnh trong đó tinh thần, chứ không phải lý trí, sẽ chống lại đói ăn thèm uống. Plato không cần phải làm một tuyên bố mạnh như thế rằng chỉ lý trí chống đối đói ăn thèm uống. Thay vào đó, ông có thể đưa ra một thí dụ về một ham muốn chống lại đói ăn thèm uống, vốn trong thực tế, xảy ra vì lý trí – chẳng hạn như, không muốn uống rượu vì nó không lành mạnh. Sau đó ông có thể kết luận rằng có một tác nhân khác hơn là đói ăn thèm uống và những mong muốn của tác nhân này đến từ suy nghĩ lý trí. Thêm tuyên bố khẳng định rằng tất cả những ham muốn chống lại những ham muốn đói ăn thèm uống đều xuất phát từ lý trí, thì không cần thiết, sai lầm, và không thuận hợp với một bước sau đó trong lập luận này cho thấy tinh thần mới thực sự chống lại đói ăn thèm uống.

Sẽ là khó khăn hơn nếu người ta có thể tưởng tượng được tình cảnh trong đó có hai đói ăn thèm uống chống lại nhau. Plato sẽ trả lời, tuy nhiên, đó là lý trí cho chúng ta thấy rằng hai ham muốn đói ăn thèm uống tự mâu thuẫn nhau nên loại trừ nhau, buộc chúng ta phải coi chúng như là những ham muốn đối nghịch nhau.

Sau khi đã lập luận về sự có mặt của hai phần khác nhau của hồn người – một đói ăn thèm uống và một kia là lý trí – Plato chỉ cần để thiết lập rằng có một phần thứ ba, phần tinh thần của hồn người để làm xong sự tương đồng với thành phố. Một lần nữa, ông bắt đầu dự án này bằng cách thiết lập sự có mặt của một nhánh thứ ba của ham muốn, cũng như là một tác nhân của mong muốn đó. Tức giận và phẫn nộ là những ham muốn. Có một tác nhân của những ham muốn này. Tiếp theo, ông cố gắng chứng minh rằng tác nhân thứ ba này không thu giảm về hai tác nhân đã thiết lập.

Đầu tiên, ông cho thấy rằng tinh thần không là đói ăn thèm uống. Một người có thể cảm thấy tức giận vì sự đói ăn thèm uống của mình (440a). Tác nhân thứ ba thì không cùng là một như của phần đói ăn thèm uống. Trái ngược với những tiềm năng ấn định cá biệt khác – tức là lý trí với sự đói ăn thèm uống, tinh thần với sự đói ăn thèm uống – sự ấn định cá biệt duy nhất có thể có để Plato chiêm ngưỡng giữa tinh thần và lý trí, đặt tinh thần vào vị trí của người tay sai, làm theo lý trí, thực hiện những mong muốn lý trí sai khiến. Plato, do đó, không sử dụng tiêu chuẩn thông thường của sự ấn định cá biệt để phân biệt tinh thần với lý trí. Thay vào đó, ông cố gắng cho thấy tinh thần đó không thể được xem là có cùng tác động như tay sai của lý trí vì nó đôi khi hành động trong sự vắng mặt của lý trí. Trẻ em và động vật có những ham muốn của tác nhân thứ ba nhưng không có phần lý trí của hồn người (441b). Do đó, tác nhân thứ ba không phải là phần lý trí của hồn người. Plato kết luận rằng có ba phần riêng biệt của hồn người (ψυχή /psyche): đói ăn thèm uống (ἐπιθυμητικόν/epithymetikon, appetitive), tinh thần (θυμοειδές/thymoeides, spirited) và lý trí (λογιστικόν /logistykon, logical).

Trong cách nào ba phần riêng biệt này tách biệt, và trong cách nào chúng tạo nên một toàn thể thống nhất? Lập luận của Plato về một hồn người ba phần trong quyển IV, cũng như mô tả của ông về ba phần của hồn người trong quyển IX, chủ yếu phụ thuộc vào việc xác định hồn người và những phần của nó qua những mong muốn được gây ra. Những mong muốn là những nguyên lý tích cực, những động lực, chúng thúc đẩy cơ thể thụ động. Vì vậy, hồn người, ít nhất ở đây, có thể được xem như một thực thể siêu hình, phục vụ như là chỗ ngụ của hoạt động của con người. Hồn người là sưu tập những nguyên lý hoạt động trong một con người.

Theo Plato, có ba sức mạnh “tâm lý” chính làm việc trong một cá nhân – sức mạnh có những thực thể vật chất và tiền bạc là đối tượng của nó; sức mạnh có những thực thể phi vật chất, nhưng thế tục, như danh dự và chiến thắng, là đối tượng của nó; và sức mạnh có những Thể dạng trong lĩnh vực vô hình là đối tượng của nó. Ba sức mạnh này được thể hiện trong những ham muốn tương ứng với sự đói ăn thèm uống, tinh thần và lý trí. Cả ba sức mạnh này tạo nên một thực thể – hồn người – trong đó chúng bao gồm một nhóm những nguyên tắc hoạt động trong một cá nhân. Tuy nhiên, chúng là những nguyên tắc hoạt động khác biệt hoạt động theo những cách khác nhau và có những đối tượng rất khác nhau.

Vì hồn người là chỗ ngụ của những sức mạnh con người, rõ ràng Plato nghĩ rằng là điều thích ứng để ấn định những phần cá biệt của nó bằng cách trưng bày những ham muốn đối nghịch bên trong nó. Cách hay nhất để chứng minh rằng có những sức mạnh tích cực hoạt động độc lập trong hồn người là để trưng bày những sức mạnh này đang cố gắng tự đối nghịch lẫn nhau. Rõ ràng cùng một sức mạnh hoạt động không thể chịu trách nhiệm cho sự cố gắng hoạt động của hai sức mạnh đối lập. Vén màn che lên cho thấy những ham muốn đối nghịch, cũng là vén màn che lên cho thấy những sức mạnh tác động riêng rẽ bên trong chỗ trú ngụ chung của những hoạt động.

Plato sử dụng tiêu chuẩn ấn định cá biệt này để chứng minh rằng có ba sức mạnh hoạt động trong hồn người. Trong khi ông thành công trong việc tách bạch ba loại mong muốn, ông không làm gì để chứng minh rằng không có nhiều hơn ba sức mạnh hoạt động . Có lẽ thay vì một hồn người ba-phần, có thể một hồn người thực sự là bốn-phần hay năm-phần. Bằng chứng nào Plato có để giới hạn nó ở ba-phần?

Phân tích ba phần của Plato về hồn người đưa ra ít nhất ba tuyên bố khá có ý nghĩa thực chất. Thứ nhất, có những tác nhân tâm lý của ham muốn có những sức mạnh tác động trên cơ thể. Thứ hai, vô số những ham muốn của một cá thể có thể được thu giảm thành ba loại chính, tương ứng với ba nhân tố tâm lý của mong muốn loại như thế, chúng điều khiển hành vi của con người. Thứ ba, mô tả cơ bản của tâm lý con người – “cấu trúc của hồn người” – có liên quan đến đạo đức và là cần thiết cho một sự hiểu biết về công chính.

Trong khi những tuyên bố thứ nhất và thứ ba ít còn được lưu hành giữa những nhà tư tưởng thời nay, sự phân chia tâm lý hay hồn cá nhân thành ba phần vẫn là một giả thuyết linh động trong việc giải thích những mâu thuẫn tâm lý nội tại trong thời nay. Nó tồn tại, trong những hình thức đã được sửa đổi, trong những hiện thân thời nay như sự phân chia Ego, Id, và Super-Ego của Freud. [1]



Quyển IV
SOCRATES kể tiếp tục:

[419a]
Adeimantus chen vào ngắt lời:
ADEIMANTUS: Ông sẽ bào chữa cho mình thế nào, Socrates, nếu một người nào đó phản đối rằng ông đang không làm những người này được rất sung sướng, và thêm nữa, rằng đó là lỗi của riêng họ khiến họ không được thế? [2] Ý tôi là, thành phố thực sự thuộc về họ, nhưng họ không nhận được của cải gì từ thành phố. Những người khác có được đất đai, xây những nhà lớn đẹp, mua những bàn ghế gường tủ với chúng, làm những lễ hiến sinh của riêng họ với những vị gót, chiêu đãi khách khứa, và cũng có thể, dĩ nhiên, có được những gì ông mới nói giờ đây: vàng và bạc và tất cả những sự vật việc mà những ai là những người sẽ được ban cho sung sướng đều đã nghĩ là để có. Thay vào đó, người này có thể nói, họ xem dường đơn giản chỉ là những người lính trợ tá được trả tiền công, đã thiết lập trong thành phố như một trại lính, và không gì khác. [3]

[420a]
SOCRATES: Phải, và còn hơn thế, họ làm điều đó chỉ để có tiền ăn ở, và không nhận thêm tiền lương vào tiền ăn ở của họ, như những người bình thường khác. Thế nên, họ ngay cả sẽ không có thể có khả năng để làm một chuyến đi chơi cá nhân ra ngoài thành phố nếu như họ muốn, hay tặng những món quà cho những bạn gái của họ, hay tiêu tiền theo bất cứ những cách nào khác họ có thể mong ước, như người ta làm, những người được xem là sung sướng. Bạn đã bỏ quên những điều này và một loạt những sự kiện tương tự khác từ danh sách những điều bạn lên án.
ADEIMANTUS: Vâng, cũng hãy cộng thêm chúng vào danh sách những điều lên án.
SOCRATES: Chúng ta sẽ bào chữa cho mình thế nào? Có phải đó là những gì bạn đang hỏi?
ADEIMANTUS: Vâng.
SOCRATES: Tôi nghĩ chúng ta sẽ tìm ra những gì để nói nếu chúng ta đi theo cùng một lối như trước đây. Bạn thấy đấy, trả lời của chúng ta sẽ là thế này: sẽ hoàn toàn không có gì ngạc nhiên tất cả nếu những người này đã là sung sướng nhất đúng như họ là thế. Tuy nhiên, trong khi thiết lập thành phố của chúng ta, chúng ta không tìm cách để làm bất kỳ một nhóm nào trong đó được sung sướng nổi bật, nhưng để làm cho toàn bộ thành phố được như thế càng nhiều càng tốt. Vì chúng ta đã nghĩ rằng chúng ta sẽ là có nhiều cơ may nhất để tìm thấy công chính trong một thành phố loại giống như vậy, và bất công, ngược lại, trong một thành phố được quản lý tồi tệ nhất. Và chúng ta đã nghĩ rằng bằng cách quan sát cả hai thành phố, chúng ta sẽ có khả năng để quyết định câu hỏi chúng ta đang tìm hiểu đã từ khá lâu. Ở thời điểm, khi đó, chúng ta lấy chính chúng ta để hình thành một thành phố hạnh phúc – không bằng cách tách ra một vài người sung sướng và đặt họ vào trong đó, nhưng bằng cách làm thành phố như một hạnh phúc toàn bộ. (Chúng ta sẽ sớm xem xét (trường hợp) thành phố đối nghịch. [4])

Giả sử, sau đó, rằng chúng ta đã đang vẽ một pho tượng [5] và một người nào đó đã đến với chúng ta, và đã bắt đầu chỉ trích chúng ta, nói rằng chúng ta đã không dùng những màu đẹp nhất vào những phần đẹp nhất của pho tượng, vì những con mắt, là phần đẹp nhất, đã được vẽ màu đen thay vì màu tím. Chúng ta tất nghĩ điều là hợp lý để đem cho sự bào chữa sau: “đồng bạn tuyệt vời tôi ơi, bạn phải không mong đợi chúng tôi vẽ hai mắt đẹp đến nỗi chúng trông không còn giống những con mắt chút nào, cũng không làm thế với những phần khác. Ngược lại, bạn phải nhìn để xem, bằng cách giải quyết với mỗi phần một cách thích ứng, liệu chúng tôi có làm toàn bộ sự vật thành đẹp đẽ hay không. Tương tự như vậy, trong trường hợp hiện có, bạn phải không ép buộc chúng tôi để đem cho những người giám hộ của chúng ta loại sung sướng mà có thể làm họ thành một gì đó khác hơn là những giám hộ. Bạn thấy đấy, chúng tôi biết mặc cho những người làm ruộng những áo choàng màu tía thế nào, choàng cho họ những trang sức bằng vàng, và bảo họ đi làm việc đồng áng bất cứ khi nào họ thích, chúng tôi biết chúng ta có thể có những thợ gốm của chúng ta nằm ngả trên ghế dựa, từ phải sang trái, trước bếp lửa, uống rượu và ăn tiệc no nê bên cạnh guồng bánh xe nặn gốm của họ, để bất cứ khi nào họ có một mong muốn làm những bình chậu. Và chúng tôi có thể làm cho tất cả những người khác sung sướng theo cùng một cách đó, như thế toàn thành phố thì sung sướng. Nhưng xin đừng thúc dục chúng tôi làm điều này. Vì nếu các bạn thuyết phục được chúng tôi, một người làm ruộng sẽ không là một nông dân, cũng thế, một thợ gốm sẽ không là một thợ gốm, và sẽ cũng không có những người khác nào vốn một thành phố được dựng lập từ những người này còn giữ đúng với khuôn loại. Nhưng đối với hầu hết những người khác, ít thành vấn đề hơn: những thợ giày trở thành kém cỏi và hư hỏng, và tuyên bố họ là những gì vốn họ thực không phải, không làm gì khủng khiếp cho thành phố. Nhưng nếu người giám hộ của pháp luật và của thành phố của chúng ta đều không thực sự là những gì họ xem dường có vẻ là, bạn có thể chắc chắn rằng họ sẽ phá hủy thành phố hoàn toàn, và về mặt khác, rằng chỉ mình họ là có cơ hội để quản lý nó giỏi, và làm nó sung sướng”.

Bây giờ, nếu chúng ta đang tạo những người giám hộ đích thực, loại ít có khả năng nhất để làm tai ác cho thành phố, và nếu phê bình của chúng ta là làm những người làm ruộng-giả – những người ăn uống sung sướng trong một lễ hội, để nói chuyện như thế, không trong một thành phố – người này không nói về một thành phố, nhưng về một gì khác. Những gì chúng ta phải xem xét, sau đó, là không biết có phải mục tiêu của chúng ta trong việc thiết lập những người giám hộ là sự sung sướng lớn nhất có thể có cho họ, hoặc không biết có phải – vì mục tiêu của chúng ta là thấy sự sung sướng này phát triển cho toàn bộ thành phố – chúng ta có nên bắt buộc hay thuyết phục những trợ tá và những người giám hộ để bảo đảm rằng họ, và tất cả những người khác, đều là những tay nghề có tài khéo giỏi nhất có thể có được trong công việc của họ; và sau đó, với toàn thành phố phát triển và được quản lý tốt, để nó với tự nhiên, để đem lại cho cho mỗi nhóm phần sung sướng được chia sẻ của nó.
ADEIMANTUS: Vâng, tôi nghĩ rằng những gì ông nói thì đúng.
SOCRATES: Tốt, sau đó, bạn có sẽ nghĩ rằng tôi cũng hợp lý nếu tôi nói một gì đó có liên quan gần gũi?

Sự Thống nhất của Kallipolis

ADEIMANTUS: Chính xác là gì?
SOCRATES: Hãy lấy phần còn lại của những tay nghề có tài khéo, những thợ thủ công, và xem xét liệu những điều này có làm hư hỏng họ đến một mức khiến họ thực sự trở thành xấu.
ADEIMANTUS: Những điều gì?
SOCRATES: Sự giàu có và nghèo túng.
ADEIMANTUS: Ông nói thế nghĩa là gì?
SOCRATES: Đây: bạn có nghĩ rằng một người thợ gốm đã trở nên giàu có sẽ vẫn sẵn sàng cống hiến hết mình cho nghề chuyên môn của mình?
ADEIMANTUS: Hoàn toàn không.
SOCRATES: Sẽ không phải người này trở thành lười biếng hơn và bất cẩn hơn so với chính người ấy trước đó?
ADEIMANTUS: Hơn rất nhiều.
SOCRATES: Sau đó, sẽ không phải người này trở thành một thợ gốm tồi tệ hơn?
ADEIMANTUS: Có, tồi tệ hơn rất nhiều.
SOCRATES: Và chắc chắn nếu sự nghèo túng cản trở người ấy tự cung ứng cho mình những dụng cụ, hay bất kỳ những sự vật nào khác nếu người ấy cần cho nghề của mình, bản thân người ấy sẽ làm những sản phẩm tệ hơn, và sẽ làm những con trai mình, hay bất cứ ai khác người ấy giảng dạy, đều sẽ là những thợ thủ công tệ nhất.
ADEIMANTUS: Tất nhiên.
SOCRATES: Như thế, nghèo túng và giàu có làm những sản phẩm và những người thực hành những nghề có tài khéo thủ công trở nên tồi tệ hơn.
ADEIMANTUS: Rõ ràng.
SOCRATES: Có vẻ như, sau đó, chúng ta đã tìm thấy những điều khác vốn những người giám hộ của chúng ta phải ngăn chặn bằng mọi cách để đừng trượt vào thành phố mà không bị nhận ra.
ADEIMANTUS: Những điều gì?
[422a]
SOCRATES: Sự giàu có và sự nghèo túng. Vì sự trước đem đến xa hoa, biếng nhác và thay đổi xáo trộn; và sự sau đem đến bần tiện, sản phẩm xấu, và cũng cả thay đổi (xáo trộn) mới nữa. [6]
ADEIMANTUS: Đúng thế. Nhưng hãy xem xét điều này, Socrates: làm thế nào thành phố của chúng ta có thể chống lại một cuộc chiến nếu nó đã không thu thập của cải giàu có, – đặc biệt nếu nó phải chống lại một thành phố lớn và giàu có?
SOCRATES: Rõ ràng, nó sẽ là khó khăn hơn để chống cự một thành phố loại như vậy, nhưng dễ dàng hơn để chống cự hai.
ADEIMANTUS: Ông nói có nghĩa gì?
SOCRATES: Trước hết, nếu thành phố của chúng ta đã phải chiến đấu chống lại một thành phố thuộc loại bạn nói đến, sẽ không phải nó là một trường hợp của những lực sĩ-chiến binh chống những người giàu có?
ADEIMANTUS: Vâng, nó sẽ là thế.
SOCRATES: Tốt, sau đó, Adeimantus, bạn không nghĩ rằng một võ sĩ đánh bốc, người đã có được huấn luyện tốt nhất có thể dễ dàng chống lại hai người không phải là những võ sĩ đánh bốc, nhưng giàu có và phì nộn?
ADEIMANTUS: Có lẽ không cùng một lượt.                                            
SOCRATES: Không ngay cả nếu người này có thể bắt đầu bỏ chạy và sau đó quay lại, và đấm ai là người đã đuổi kịp người này trước tiên, và có thể làm điều này thường xuyên, ngoài trời nắng ngột ngạt nóng bức? Không phải một người như thế có thể đánh bại thậm chí nhiều hơn hai kẻ thù như vậy?
ADEIMANTUS: Chắc chắn sẽ không có gì ngạc nhiên nếu người ấy có thể làm thế.
SOCRATES: Tốt, có phải bạn không nghĩ rằng những người giàu có nhiều kiến ​​thức và kinh nghiệm về đánh bốc hơn là về cách chiến đấu một cuộc chiến thế nào?
ADEIMANTUS: Có.
SOCRATES: Rất có thể xảy ra, khi đó, những lực sĩ của chúng ta sẽ dễ dàng có khả năng đánh lại số đông gấp hai hay ba lần hơn họ.
ADEIMANTUS: Tôi sẽ phải đồng ý với ông điều đó, vì tôi nghĩ rằng những gì ông nói thì đúng.

SOCRATES: Tốt, sau đó, thế như nếu họ đã gửi một phái viên đến thành phố khác với thông báo đúng như sau thì sao: “chúng tôi không dùng vàng hay bạc. Nó thì trái với luật thần linh của chúng tôi để làm như vậy, nhưng với các bạn thì không. Thế nên, hãy tham gia chiến tranh này với chúng tôi, và các bạn có thể có tài sản của kẻ thù chúng ta.” Bạn có nghĩ rằng bất cứ ai nghe thấy tin này sẽ chọn để chống lại những con chó săn thịt cứng toàn nạc, chứ không phải là để nhập đoàn với những con chó săn chiến đấu chống lại đám cừu béo tốt và nhu mì?
ADEIMANTUS: Không, tôi không. Nhưng nếu sự giàu có của tất cả những thành phố khác đã được một thành phố duy nhất tích lũy, ông không nghĩ rằng thế đó sẽ gây nguy hiểm cho thành phố không giàu có của ông?
SOCRATES: Bạn thì thật sung sướng ngây thơ, nếu bạn nghĩ rằng bất kỳ thành phố nào bên cạnh thành phố chúng ta đang xây dựng đáng để được gọi là một thành phố.
ADEIMANTUS: Chúng ta nên gọi chúng là gì, khi đó?
SOCRATES: Chúng ta sẽ phải tìm một tên gọi “lớn hơn” cho những thành phố khác, vì mỗi chúng là một số đông-những-thành-phố lớn, nhưng không là một thành phố, như họ nói trong trò chơi. [7] Chúng gồm hai thành phố, dù mức độ nào đi nữa, có chiến tranh với nhau: thành phố của giới nghèo và của giới giàu. Và bên trong mỗi thành phố này, lại có một số nhiều hơn nữa. Vì vậy, nếu bạn xem chúng như một thành phố, bạn sẽ phạm một sai lầm lớn. Nhưng nếu bạn xem với chúng như nhiều thành phố, và đem cho một này với tiền bạc, quyền lực, và chính những dân cư của một kia, bạn sẽ luôn tìm thấy nhiều những đồng minh và rất ít những kẻ thù. Và cho đến chừng nào thành phố của riêng bạn thì được cai trị ôn hoà chứng mực trong cách chúng ta vừa sắp đặt, nó sẽ là lớn nhất – không phải ở danh tiếng, tôi không nói với ý đó, nhưng thành phố lớn nhất trong thực tế, – ngay cả khi nó chỉ có một ngàn binh sĩ để bảo vệ nó. Vì bạn sẽ không dễ dàng tìm thấy một thành phố lớn lao như vậy, hoặc giữa dân Greece hay những dân man rợ, mặc dù bạn sẽ tìm thấy nhiều (thành phố) nổi tiếng là lớn lao hơn gấp hàng nhiều lần. Hay bạn không đồng ý?
ADEIMANTUS: Không, có Zeus chứng giám, tôi đồng ý.
SOCRATES: Điều này, khi đó, cũng sẽ cung cấp cho những người cai trị của chúng ta với những giới hạn tốt nhất để xác định kích thước thích hợp của thành phố, và bao nhiêu đất, họ nên đánh dấu dành cho một thành phố với kích thước đó, sau khi buông bỏ phần còn lại.
ADEIMANTUS: Đó là giới hạn gì?
SOCRATES: Tôi nghĩ nó là điều này: cho đến chừng nào nó sẵn lòng với ý định để vẫn là một thành phố, nó có thể tiếp tục tăng trưởng, nhưng không vượt quá điểm đó.
ADEIMANTUS: Và đó là một điều tốt.
SOCRATES: Khi đó, chúng ta cũng sẽ cho thêm mệnh lệnh này với những giám hộ của chúng ta, rằng họ phải gìn giữ, bằng mọi cách chống lại, hoặc là thành phố thì nhỏ về kích thước, hay lớn về danh tiếng, thay vì đúng hơn về kích thước là tương xứng và về con số là một.
ADEIMANTUS: Chắc chắn, đó sẽ là một hướng dẫn nhỏ nhặt cho họ để làm theo!

SOCRATES: Đây là một mệnh lệnh thậm chí còn cỏn con hơn. Chúng ta cũng đã nhắc đến trước đây rồi. [8] Chúng ta nói rằng nếu một con cái của những người bảo vệ thì hèn kém, nó phải được gửi đi nhập đoàn với những công dân khác, và rằng nếu những công dân khác có con cái xuất xắc, nó phải nhập đoàn với những người giám hộ. Điều này có nghĩa là để làm cho rõ ràng rằng mọi công dân khác, cũng vậy, phải được giao cho những gì tự nhiên phù hợp với mình, với một cá nhân được giao một công việc như thế đó, sau khi thực hành nghề nghiệp theo đuổi của riêng mình, mỗi chúng sẽ trở thành không nhiều nhưng một, và toàn bộ thành phố do đó phát triển tự nhiên thành một, nhưng không nhiều.
ADEIMANTUS: Ồ, vâng, đó là một điều còn nhỏ nhặt hơn!

Sự Quan trọng của Giáo dục

SOCRATES: Thực sự, bạn tốt Adeimantus của tôi ơi, những mệnh lệnh chúng ta giao cho họ, hoặc không nhiều, hoặc không khó khăn, như người ta sẽ nghĩ. Quả thực, chúng tất cả đều nhỏ nhặt không đáng kể, như lời thường vẫn nói, miễn là chúng bảo vệ điều lớn lao này – hay đúng hơn không lớn lao, nhưng thích đáng.
ADEIMANTUS: Điều gì thế?
SOCRATES: Giáo dục cho họ và cho con cái họ. Vì nếu một nền giáo dục tốt làm họ thành những người điều độ ôn hoà, họ sẽ dễ dàng tìm ra tất cả sự vật việc này cho bản thân họ – và mọi sự vật việc khác vốn chúng ta bây giờ đang bỏ qua, chẳng hạn như sự sở hữu phụ nữ, hôn nhân, và sự sinh sản con trẻ, và tất cả những điều này phải được cai quản thế nào theo câu tục ngữ cổ rằng “bạn bè chia sẻ chung tất cả mọi thứ”, càng giống nhiều như thế càng hay.
ADEIMANTUS: Vâng, đó sẽ là điều tốt nhất.
SOCRATES: Và chắc chắn một khi hiến pháp của chúng ta đã khởi đầu tốt đẹp, nó sẽ, như nó đã, tiếp tục phát triển trong một vòng tròn. Vì giáo dục và dưỡng dục tốt, nếu chúng được giữ vững, tạo ra những bản chất tốt và những bản chất vững chắc, đến lượt chúng nhận được một nền giáo dục tốt đẹp như thế, phát triển lại còn còn tốt hơn so với những người trước của chúng, trong mọi phương diện, nhưng đặc biệt là về phương diện đối với những con cái của họ, như trong trường hợp của tất cả những loài động vật khác.
ADEIMANTUS: Vâng, có thể là như vậy.

SOCRATES: Để nói vắn tắt, khi đó, những gì những người quan sát của thành phố chúng ta phải bám vào, đừng để cho thành bại hoại mà họ không nhận thấy nó, và phải phòng vệ chống lại tất cả mọi thứ, là thế này: phải là không có đổi mới trong âm nhạc hoặc thể dục đi ngược lại với trật tự đã thành lập. Ngược lại, họ phải phòng vệ chống lại điều đó đến mức tối đa như họ có thể phòng vệ được. Và họ nên khiếp hãi để nghe bất cứ ai nói rằng “mọi người nghĩ nhiều nhất đến bài hát vốn nổi lên mới nhất từ môi của người ca sĩ” [9] trong trường hợp xảy ra một người nào đó sẽ giả sử rằng nhà thơ nói với nghĩa không phải là những bài hát mới, nhưng một cách ca hát mới, và ca ngợi điều đó. Tuy nhiên, chúng ta không nên ca ngợi một luận điệu loại như thế, hay hiểu nó như những gì nhà thơ muốn nói. Bạn thấy đấy, một sự thay đổi cho một loại mới của huấn luyện âm nhạc là một gì đó hãy đề phòng cẩn thận xem như hoàn toàn nguy hiểm. Vì một người không bao giờ có thể thay đổi cách huấn luyện trong âm nhạc mà không ảnh hưởng đến điển luật chính trị lớn nhất. Đó là những gì Damon nói, và tôi tin ông ấy nói đúng. [10]
ADEIMANTUS: Ông cũng có thể kể tôi vào trong số những người tin thế.
SOCRATES: Có vẻ như, khi đó, rằng đó là trong sự huấn luyện âm nhạc vốn nhà canh gác của những người giám hộ của chúng ta chắc chắn phải được xây dựng.
ADEIMANTUS: Dù mức nào, loại vô pháp luật này dễ dàng tự chen vào mà không nhận ra.
SOCRATES: Vâng, vì nó được giả định chỉ là phần của một trò chơi, như vậy, khiến không thể gây hại.
ADEIMANTUS: Và nó thực không gây bất kỳ nào – ngoại trừ, tất nhiên, khi nó đã thiết lập chính nó ở đó, nó thong thả và im lặng tràn vào những thói quen và thực hành của người ta. Từ những chỗ này nó đi tới hăng hái hơn vào những hợp đồng tư nhân, và sau đó từ những hợp đồng tư nhân nó tiến lên với cực kỳ xấc xược vào trong luật pháp và hiến pháp, Socrates, cho đến cuối cùng, nó lật đổ tất cả mọi sự vật việc công cộng và tư nhân.
SOCRATES: Vâng, là thế sao?
ADEIMANTUS: Tôi nghĩ nó là thế.
SOCRATES: Sau đó, như chúng ta đã nói lúc đầu, con em chúng ta phải tham dự vào những trò chơi vốn tuân hành pháp luật hơn ngay từ khởi đầu, vì, nếu những trò chơi của chúng trở thành vô luật lệ và những đứa trẻ bắt chước làm theo, không phải là không thể nào cho chúng lớn lên mà thành những người xuất sắc và tuân hành pháp luật?

[425a]
ADEIMANTUS: Dĩ nhiên.
SOCRATES: Như thế bất cứ khi nào trẻ em chơi đùa trong một cách thức tốt lành ngay từ khởi đầu và thu nhận tính hợp pháp từ huấn luyện âm nhạc, có kết quả ngược lại: tính hợp pháp đi theo chúng trong tất cả mọi sự vật việc, và thúc đẩy sự tăng trưởng của chúng, sửa chữa bất cứ gì trong thành phố vốn có thể đã bị bỏ bê trước đó.
ADEIMANTUS: Đúng là thế.
SOCRATES: Và do đó, những người như thế tìm ra lại những quan điểm qui ước xem dường không đáng kể vốn những người trước họ đã phá hủy.
ADEIMANTUS: Loại nào?
SOCRATES: Những người đó giải quyết những sự việc giống thế này: sự im lặng thích đáng cho những người trẻ tuổi trước sự có mặt của những người trên, lớn tuổi của họ, nhường chỗ cho họ, và đứng lên khi có sự có mặt của họ, chăm sóc cha mẹ, kiểu tóc; quần áo, giày dép; giáng vẻ tổng quát của cơ thể, và mọi sự việc khác loại như thế. Bạn không đồng ý sao?
ADEIMANTUS: Tôi đồng ý.
SOCRATES: Để lập pháp về những sự việc như vậy thì ngây thơ, trong quan điểm của tôi, vì những nghị định bằng lời hay bằng chữ sẽ không bao giờ làm cho chúng thành xảy ra hay lâu dài.
ADEIMANTUS: Làm thế nào chúng có thể?
SOCRATES: Ở mức nào đi nữa, Adeimantus, có vẻ như qua sự bắt đầu của giáo dục của một người nào đó ấn định những gì theo đến sau. Hay không phải là những gì giống nhau luôn luôn khuyến khích những gì giống nhau?
ADEIMANTUS: Có thế.
SOCRATES: Và thành quả cuối cùng của giáo dục, tôi tưởng tượng chúng ta sẽ nói, là một sản phẩm duy nhất, hoàn chỉnh, và tươi mới vốn hoặc là tốt hoặc ngược lại.
ADEIMANTUS: Tất nhiên.
SOCRATES: Đó là lý do, về phần tôi, tôi sẽ không cố gắng để ban hành luật lệ về những sự việc như vậy.
ADEIMANTUS: Và với lý do tốt.
SOCRATES: Sau đó, những vị gót ơi, thế còn về tất cả công việc buôn bán chốn chợ búa đó, hợp đồng người ta làm với nhau ngoài chợ buôn bán, lấy thí dụ, và những hợp đồng với những thợ thủ công, những vu khống, những thương tích, những cáo trạng, lập những đoàn bổi thẩm, tới kỳ trả tiền hay thu tiền bất cứ gì là cần thiết ngoài chợ búa và trên bến cảng, và trong vắn tắt, toàn bộ những quy định của thương trường, thành phố, bến cảng, hay những gì bạn dám – chúng ta ban hành luật về bất kỳ một nào của những sự việc này?
ADEIMANTUS: Không, nó sẽ không là thích hợp để ra lệnh cho những ai là những con người tử tế và tốt lành. Vì họ sẽ dễ dàng tìm ra cho chính họ bất cứ gì cần được lập pháp về những sự vật việc loại như vậy.
SOCRATES: Phải, bạn của tôi ơi, miễn là một gót nhận cho rằng pháp luật chúng ta đã vừa mô tả được giữ nguyên vẹn.
ADEIMANTUS: Nếu không, họ sẽ dành cả đời họ để liên tục làm và sửa những luật như vậy với hy vọng tìm được những gì tốt nhất.
SOCRATES: Bạn muốn nói là họ sẽ sống như những người bị bệnh đó, vì họ vô độ, những người không sẵn sàng buông bỏ lối sống xấu của họ.
ADEIMANTUS: Đúng thế.
[416a]
SOCRATES: Những người như vậy thực sự sống một đời sống lôi cuốn! Sự chữa chạy bệnh tật của họ không đạt được gì cả, ngoại trừ để làm cho bệnh tình của họ tồi tệ và phức tạp hơn, và họ luôn luôn hy vọng rằng một ai đó sẽ đề nghị một vài thuốc mới vốn sẽ làm họ khỏe mạnh.
ADEIMANTUS: Vâng, đó là đúng những gì xảy ra với những người tàn phế thuộc loại này.
SOCRATES: Và không phải hay sao, một phương diện lôi cuốn khác của họ rằng họ nghĩ kẻ thù tồi tệ nhất của họ trong tất cả là một trong những người nói với họ sự thật – rằng cho đến khi họ buông bỏ say rượu, ăn quá nhiều, đắm say tình dục, và biếng nhác, sau đó không có thuốc, đốt, hay mổ xẻ nào, không có lôi cuốn, bùa hộ mệnh nào, hay bất cứ sự vật gì khác loại như thế sẽ làm được cho họ bất kỳ tốt lành nào?
ADEIMANTUS: Không có gì là lôi cuốn cả. Khắc nghiệt với một người nào đó đã nói sự thật thì không lôi cuốn.
SOCRATES: Bạn không chấp nhận những người loại như vậy, rõ ràng.
ADEIMANTUS: Không, có Zeus chứng giám, tôi không.

SOCRATES: Vậy bạn sẽ cũng không chấp nhận một thành phố toàn bộ vốn hoạt động theo lối chúng ta vừa mô tả. Hay bạn không nghĩ rằng những người tàn phế như vậy hoạt động theo cùng một cách rất giống như những thành phố ở đó xảy ra những sự vật việc sau đây? Vì chúng đều được cai trị một cách tệ hại về chính trị; những công dân đã được báo trước đừng thay đổi toàn bộ hệ thống chính trị, và ai là người làm thế bị đe dọa với tội tử hình. Tuy nhiên, ai là người phục vụ những thành phố này dễ chịu nhất, trong khi chúng vẫn còn bị cai quản về chính trị theo cách đó, người nào thỏa mãn chúng, tâng bốc chúng, đoán trước những ​​mong muốn của chúng, và thông minh đáp ứng chúng, không phải là người ấy, về lý do đó, được chúng vinh danh như là một người tốt, người khôn ngoan trong những quan vấn đề quan trọng nhất?
ADEIMANTUS: Vâng, tôi nghĩ rằng hành vi của chúng đều giống như nhau và tôi không chấp nhận việc đó chút nào tất cả.
SOCRATES: Thế còn về những người đó là người sẵn sàng và sốt sắng cung cấp chữa trị cho những thành phố loại giống như vậy thì sao? Bạn không chấp nhận sự can đảm của họ và cũng cả sự nhẹ dạ thiếu trách nhiệm của họ?
ADEIMANTUS: Tôi chấp nhận, thực vậy, – ngoại trừ những ai đó là những người lừa dối thực sự và tự cho rằng bản thân họ là những con người đích thực của chính trị vì họ được quần chúng tán tụng.
SOCRATES: Bạn nói với ý gì? Bạn không có cảm tình với những người này? Hay có phải bạn có nghĩ rằng điều có thể xảy ra để một người không biết đo lường bất cứ gì như thế nào nhưng không tin rằng người ấy thì cao bốn cubits [11] khi nhiều người khác, cũng dốt nát tương tự, nói với người ấy rằng người ấy là thế?
ADEIMANTUS: Không, tôi không nghĩ thế.
SOCRATES: Vậy đừng có quá khó khăn với họ. Bạn thấy, những người như vậy chắc chắn là lôi cuốn dễ thương nhất tất cả. Họ ban hành và sửa đổi những loại pháp luật, chúng ta vừa mới mô tả, và luôn luôn hy vọng rằng họ sẽ tìm thấy một cách để chấm dứt việc gian lận về những hợp đồng, và những việc làm xấu xa khác tôi đã đề cập mới giờ đây, không nhận ra rằng họ thực sự chỉ là cắt bỏ một đầu của con quái vật Hydra [12].
ADEIMANTUS: Tuy nhiên, đó là tất cả những gì họ thực sự đang làm.


Tôn Giáo
[427a]                                                                        
SOCRATES: Tôi hẳn đã có suy nghĩ, khi đó, rằng một người ban hành luật đích thực không nên áy náy với những luật hay hiến pháp thuộc loại này, cho dù trong một thành phố được cai trị tệ hại hay khéo léo về chính trị – 



Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Oct/2010 – đọc lại May/2018)






[1] Xem Freud – Cái Ta và cái Đó, bản tôi tạm dịch trên blog này.
Những das Ich, das Es, và das Über-Ich của Freud không hoàn toàn tương đồng với lý trí (λογιστικὸν) tinh thần (θυμοειδές), và đói ăn thèm uống (ἐπιθυμητικόν).của Plato. Chỉ có sự phân chia làm ba phần trong tâm lý (Freud) và hồn người (Plato) là tương đồng, và phần nào ý niệm “hồn người” trong Plato và “tâm lý” con người trong Freud là những ý niệm tương đồng.
[2] [“Plato demanded the abolition of all private possession and the suppression of all individual interests because it is only in the Idea or Universal that he acknowledge any title to true reality.”]
[3] Bản Cambridge: như những lính đánh thuê (‘exactly like hired mercenaries’)
[4] Thảo luận về điều này bắt đầu ở 445c, nhưng gián đoạn, và rồi không được tiếp tục cho đến quyển 8.
[5] Những tượng Hellas thời cổ được vẽ và mạ vàng hay dát bạc.
[6] Theo ý bản Shorey Cambridge: “since the one brings luxury, idleness and innovation, and the other illiberality and the evil of bad workmanship in addition to innovation.”
[7] Dẫn chứng ở đây tối nghĩa, có thể là một tục ngữ nào đó, hay một trò chơi loại checkers có tên gọi là polis
[8] [415a-c]
[9] Odyssey 1.351-2
[10] Damon người thành Athens: (ca. 500– sau 415 TCN) nhà lý thuyết âm nhạc và thi ca quan trọng nhất của Athens trong thế kỷ V TCN, và cũng là thày dạy, cố vấn chính trị của Perikles.
[11] Khoảng 1.83 m
[12] Hydra hay Lernaean Hydra trong huyền thoại Hellas là một con rắn nước khổng lồ có chín đầu, sống trong đầm Lerna. Khi bị Herakles lùng giết, hễ chặt đứt được một cái đầu, lại có hai cái đầu mới mọc ra thế chỗ.