Saturday, December 31, 2016

Harari – Homo Deus: một Lịch sử Ngắn gọn của Ngày mai (06)

Người-gót: một Lịch sử Ngắn gọn của Ngày mai
Homo Deus: A Brief History of Tomorrow

Yuval Noah Harari,








3

Tia lửa con người loé sáng

Không nghi ngờ gì rằng Homo sapiens là loài vật mạnh nhất trên thế giới. Homo sapiens cũng thích nghĩ rằng nó hưởng một địa vị tinh thần đạo đức siêu việt, và rằng mạng sống con người thì giá trị hơn nhiều so với mạng sống của con lợn, con voi, hay con chó sói. Điều này thì kém rõ ràng hơn. Có phải sức mạnh lớn lao làm nên lẽ phải đạo đức? Có phải mạng người quý hơn mạng lợn đơn giản chỉ vì tập thể loài người thì mạnh hơn tập thể loài lợn? Nước USA hùng mạnh hơn Afghanistan rất nhiều; có phải điều này hàm ý rằng những mạng sống người USA có giá trị nội tại lớn hơn của những người Afghanistan?

Trong thực tế, những mạng sống người US thì có giá trị hơn nhiều. Rất nhiều tiền của đã đầu tư vào giáo dục, y tế và bảo hiểm an ninh xã hội cho người US trung bình hơn cho người Afghanistan trung bình. Giết chết một công dân US tạo ra một làn sóng phản đối quốc tế lớn hơn nhiều so với giết chết một công dân Afghanistan. Tuy nhiên, thông thường đã chấp nhận rằng điều này thì không gì hơn là một hậu quả bất công của cán cân địa chính trị của quyền lực. Afghanistan có thể có ít ảnh hưởng quyền lực hơn so với USA, nhưng sự sống của một đứa trẻ vùng núi Tora Bora thì dù mỗi mảnh nhỏ nhất được xem cũng thiêng liêng như sự sống của một đứa trẻ thành phố Beverly Hills.

Ngược lại, khi chúng ta cho những con cái của con người ưu quyền nhưng không cho những con lợn con, chúng ta muốn tin rằng điều này phản ảnh một gì đó sâu xa hơn sự phân bối quân bằng sinh thái của quyền lực. Chúng ta muốn tin rằng sự sống con người thực sự siêu việt trong một số mức độ nền tảng nào đó. Chúng ta Sapiens thích nói với mình rằng chúng ta hưởng một vài phẩm tính huyền diệu không chỉ giải thích cho sức mạnh bao la của chúng ta, nhưng cũng đem cho địa vị ưu thắng của chúng ta sự biện minh về tinh thần đạo đức. Tia lửa độc đáo này loé sáng trong con người là gì?

Câu trả lời theo thuyết tin chỉ một gót truyền thống là chỉ những Sapiens mới có những linh hồn vĩnh cửu. Trong khi thể xác phân hủy và thối rữa, linh hồn trên đường hướng tới sự cứu rỗi hay sự nguyền rủa, và sẽ kinh nghiệm một trong hai, sung sướng đời đời trong cõi của gót, hay đau khổ đời đời trong hoả ngục. Vì những con lợn và những thú vật khác đều không có linh hồn, chúng không tham dự vào vở kịch vũ trụ này. Chúng sống chỉ một số năm, và sau đó chết, và chìm vào hư vô. Do đó chúng ta nên quan tâm nhiều hơn về những linh hồn con người vĩnh cửu thay vì những con lợn có đời sống ngắn ngủi.

Đây không phải là truyện kể cổ tích lớp mẫu giáo, nhưng một huyền thoại cực kỳ mạnh mẽ tiếp tục định hình những đời sống của hàng tỉ người và động vật trong những năm đầu thế kỷ XXI. Niềm tin rằng con người có linh hồn vĩnh cửu, trong khi thú vật chỉ là những thân xác phù du, là một trụ cột trung tâm của hệ thống pháp luật, chính trị và kinh tế của chúng ta. Nó giải thích, lấy thí dụ, tại sao là hoàn toàn không có gì phải nói để con người giết những con vật để ăn, hoặc thậm chí chỉ để lấy đó làm vui.

Tuy nhiên, những khám phá khoa học mới nhất của chúng ta thẳng thừng phủ nhận sự thật của huyền thoại trong những tôn giáo tin chỉ một gót này. Đúng, những thí nghiệm khảo cứu xác nhận tính chân thực của một phần của huyền thoại: đúng như những tôn giáo tin chỉ một gót nói, những thú vật không có linh hồn. Tất cả những nghiên cứu cẩn thận và xem xét chi ly kỹ lưỡng đều đã thất bại trong việc tìm ra được bất kỳ một dấu vết nào của một linh hồn trong những con lợn, chuột hay khỉ rhesus. Than ôi, cùng những những thí nghiệm khảo cứu tương tự đã cũng phá huỷ nền móng phần hai và quan trọng hơn nhiều của huyền thoại trong tôn giáo tin chỉ một gót, nói cụ thể, rằng con người thực có một linh hồn. Những nhà khoa học đã đặt Homo sapiens làm đối tượng cho hàng chục ngàn những thí nghiệm khác thường, và nhìn vào mọi góc cạnh trong cõi lòng chúng ta và mọi ngõ ngách trong bộ óc của chúng ta. Nhưng cho đến nay họ đã vẫn không khám phá được tia lửa loé sáng huyền diệu nào. Bằng chứng khoa học để cho rằng ngược lại với những con lợn, những Sapiens có những linh hồn, là con số không

Nếu đó đã là tất cả, chúng ta cũng có thể lập luận rằng những nhà khoa học chỉ cần tiếp tục tìm kiếm. Nếu họ đã không tìm thấy linh hồn nào cả, đó là vì họ đã chưa nhìn cho đủ kỹ lưỡng. Tuy nhiên, ngành khoa học sự sống nghi ngờ sự là-có của linh hồn, không chỉ do thiếu bằng chứng, nhưng đúng hơn vì chính ý tưởng về linh hồn thì mâu thuẫn với những nguyên lý cơ bản nhất của tiến hóa. Mâu thuẫn này là nguyên nhân cho sự thù hận không dằn được mà thuyết tiến hóa thổi vào giữa những người sùng mộ của những tôn giáo tin chỉ một gót.

Ai là người sợ hãi Charles Darwin?

Theo một thăm dò thống kê của Gallup năm 2012, chỉ có 15 phần trăm người USA nghĩ rằng Homo sapiens đã tiến hóa qua chọn lọc tự nhiên mà thôi, hoàn toàn không có can thiệp tất cả nào của Gót; 32 phần trăm cho rằng con người có thể đã tiến hóa từ những dạng sống xuất hiện sớm hơn trước đó trong một quá trình kéo dài hàng triệu năm, nhưng Gót đã sắp đặt toàn bộ màn trình diễn này; 46 phần trăm tin rằng Gót đã tạo ra con người trong hình dạng hiện tại của họ, đâu đó trong vòng chỉ 10.000 năm qua, đúng như Sách Thánh Kitô nói. Ngồi ba năm trên ghế nhà trường bậc cao đẳng, tuyệt đối không có tác động gì tới những quan điểm này. Cuộc khảo sát cũng cho thấy trong số sinh viên tốt nghiệp Cử nhân, 46 phần trăm tin vào truyện kể sáng tạo của Sách Thánh Kitô, trong khi chỉ có 14 phần trăm nghĩ rằng con người đã tiến hóa mà không cần bất kỳ sự giám sát nào của thần linh. Ngay cả trong số người có bằng Cao học và Tiến sĩ, độ 25 phần trăm tin vào Sách Thánh Kitô, trong khi chỉ có 29 phần trăm ghi nhận một mình chọn lọc tự nhiên với sự sáng tạo của loài người chúng ta.[1]

Mặc dù những trường học rõ ràng làm rất tồi việc giảng dạy thuyết tiến hóa, những người cuồng tín tôn giáo vẫn khăng khăng rằng nó không nên được đem giảng dạy gì hết tất cả. Ngoài ra, họ đòi hỏi rằng trẻ em phải được dạy thuyết ‘thiết kế thông minh’, theo đó tất cả những sinh vật đã được sáng tạo bởi sự thiết kế của một thông minh siêu vệt nào đó (nghĩa là Gót). “Dạy chúng cả hai thuyết,” những người cuồng tín nói, “và để những trẻ em tự quyết định lựa chọn.”

Tại sao thuyết tiến hóa khơi động những chống đối như vậy, trong khi dường như không ai bận tâm về thuyết tương đối hay thuyết cơ học quantum? Tại sao những nhà chính trị không đòi rằng trẻ em được tiếp xúc với những lý thuyết lựa chọn thay thế khác về vật chất, năng lượng, không gian và thời gian? Sau rốt, những ý tưởng của Darwin, ngay từ cái nhìn đầu tiên, xem dường ít đe dọa hơn so với những kinh ngạc ghê gớm của Einstein và Werner Heisenberg. Học thuyết về sự tiến hóa sinh vật dựa trên nguyên lý của ‘sự sống còn của loài thích nghi nhất’ [2], vốn là một ý tưởng – không phải để nói là buồn tẻ, không có gì hứng thú – rõ ràng và đơn giản. Ngược lại, lý thuyết tương đối và cơ học quantum cho rằng bạn có thể xoay thời gian và không gian, rằng một gì đó có thể xuất hiện từ không gì cả, và rằng một con mèo có thể vừa cả hai, còn sống và đã chết, cùng một lúc. Điều này như gây một nhạo báng với cảm thức thông thường của chúng ta, thế nhưng không ai tìm cách bảo vệ những học sinh ngây thơ tránh khỏi những ý tưởng gây dư luận xôn xao này. Tại sao?

Lý thuyết tương đối không làm cho một ai tức giận, vì nó không mâu thuẫn với bất kỳ những tin tưởng trân quí nào chúng ta hằng ôm giữ cả. Hầu hết mọi người không quan tâm một mảy may nào, cho dù không gian và thời gian là tuyệt đối hay tương đối. Nếu bạn nghĩ rằng có thể uốn cong không gian và thời gian, hay lắm, hãy tự nhiên. Cứ làm đi và uốn cong chúng. Tôi có gì phải bận tâm? Ngược lại, Darwin đã tước đi mất linh hồn của con người. Nếu bạn thực sự hiểu thuyết tiến hóa, bạn biết rằng không có linh hồn. Đây là một ý tưởng kinh hãi không chỉ với những người Kitô và Muslim sùng đạo, nhưng còn với nhiều người thế tục, những người không ôm giữ bất kỳ tín điều tôn giáo rõ ràng nào, nhưng vẫn muốn tin rằng mỗi con người có một bản thể cá nhân vĩnh cửu vốn không thay đổi trong suốt cuộc đời, và có thể tồn tại không suy chuyển ngay cả sau cái chết.

Nghĩa đen của từ “cá nhân” là ‘một gì đó mà không thể phân chia được’ [3]. Rằng tôi là một “không-phân chia được” hàm ý rằng bản ngã thực của tôi là một thực thể toàn bộ và toàn diện chứ không phải là một kết hợp của những phần riêng biệt. Bản chất không thể phân chia này được viện dẫn là tồn tại từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc sau mà không bị mất bớt, hoặc nhận thêm bất cứ gì. Cơ thể và bộ óc của tôi khứng chịu một tiến trình liên tục của thay đổi, khi những nơrôn bật động, những kích thích tố chảy, và những bắp thịt co dãn. Những tính cách cá nhân [4], những mong muốn, và những quan hệ của tôi, không bao giờ đứng yên, và có thể thay đổi sau nhiều năm, và hoàn toàn thay đổi sau nhiều mười năm. Nhưng ngầm bên dưới nó, tôi thì tất cả vẫn là cùng một con người, từ khi sinh ra cho đến chết – và có thể tiếp tục hiện hữu nguyên vẹn ngay cả sau cái chết.

Thật không may, thuyết tiến hóa bác bỏ ý tưởng rằng bản ngã thực của tôi là một gì đó không phân chia được, không biến đổi, và có khả năng vĩnh cửu. Theo thuyết tiến hóa, tất cả những thực thể sinh học – từ những con voi và những cây sồi, tới những tế bào và những molecule DNA – đều được những phần nhỏ hơn và đơn giản hơn hợp thành, vốn chúng không ngừng kết hợp và phân tách. Những con voi và những tế bào đều đã tiến hoá dần dần, như một kết quả của những kết hợp mới và những phân hoá mới. Một gì đó không thể phân chia hoặc không thay đổi thì không thể đi đến thành hiện hữu qua chọn lọc tự nhiên.

Con mắt của con người, lấy thí dụ, là một hệ thống hết sức phức tạp làm bởi rất nhiều phần nhỏ hơn, như thấu kính, giác mạc và võng mạc. Con mắt đã không bật ra từ hư không hoàn chỉnh với tất cả những thành phần này. Thay vào đó, nó đã tiến hóa từng bước nhỏ qua hàng triệu năm. Mắt chúng ta thì rất tương tự như mắt của người Homo erectus, người đã sống 1 triệu năm trước. Nó thì có phần nào ít tương tự hơn với mắt của Australopithecus, sống 5 triệu năm trước. Nó rất khác biệt với mắt của Dryolestes, người sống 150 triệu năm trước. Và có vẻ như không có gì chung với những sinh vật đơn bào đã cư ngụ trong trái đất của chúng ta hàng trăm triệu năm trước đây.

Tuy nhiên, ngay cả những sinh vật đơn bào cũng có những cơ cấu cực nhỏ bên trong tế bào [5] cho những vi sinh vật khả năng để phân biệt ánh sáng với bóng tối, và chuyển động hướng tới một này hay một khác. Con đường dẫn từ những cảm biến cổ xưa giống như vậy đi đến con mắt người thì dài và quanh co, nhưng nếu bạn có hàng trăm triệu năm dành riêng ra để thực hiện, bạn chắc chắn có thể đi trọn tất cả con đường, từng bước một. Bạn có thể làm việc đó vì mắt bao gồm nhiều những bộ phận khác biệt. Nếu mỗi vài thế hệ có một đột biến nhỏ, thay đổi hơi một chút một trong những bộ phận này – nói thí dụ, giác mạc trở nên cong hơn một chút – sau khi hàng triệu thế hệ những thay đổi này có thể thành kết quả trong một con mắt người. Nếu mắt là một thực thể toàn diện, không có bất kỳ bộ phận nào, nó đã có thể không bao giờ tiến hoá bởi sự chọn lọc tự nhiên.

Đó là lý do thuyết tiến hóa không thể chấp nhận ý tưởng về những linh hồn, ít nhất là nếu khi nói “linh hồn”, chúng ta muốn nói với nghĩa là một gì đó không phân chia được, không biến đổi, và bản chất có khả năng vĩnh cửu. Một thực thể loại giống như vậy không thể nào có thể là kết quả của một quá trình tiến hóa từng bước. Chọn lọc tự nhiên có thể làm nên một con mắt người, vì mắt có những phần. Nhưng linh hồn không có những phần. Nếu linh hồn Sapiens tiến hóa từng bước từ linh hồn Erectus, những bước này đích xác đã là gì? Có phải một vài phần của linh hồn thì đã tiến hóa trong Sapiens hơn trong Erectus? Nhưng linh hồn không có những phần.

Bạn có thể tranh luận rằng những linh hồn con người đã không tiến hóa, nhưng đã hiện ra một ngày nào đó rạng rỡ trong viên mãn huy hoàng của chúng. Nhưng chính xác lúc nào là ngày huy hoàng đó? Khi chúng ta nhìn thật chi ly kỹ lưỡng vào sự tiến hóa của loài người, đó là quá khó khăn, phải ngượng ngùng bối rối vì không tìm thấy nó. Mỗi con người từng hiện hữu đều sinh ra đời như kết quả của tinh trùng nam thụ tinh với một trứng nữ. Hãy tưởng tượng nghĩ đến của em bé đầu tiên có một linh hồn. Rằng em bé đó rất giống mẹ và cha của em, ngoại trừ việc em có một linh hồn vốn cha mẹ em không có. Sự hiểu biết sinh học của chúng ta chắc chắn có thể giải thích sự ra đời của một em bé có giác mạc thì cong một chút nhiều hơn giác mạc của cha mẹ em. Một đột biến nhẹ trong một gene duy nhất có thể giải thích cho điều đó. Nhưng sinh học không thể giải thích sự ra đời của một em bé sở hữu một linh hồn vĩnh cửu từ cha mẹ là những người không có, ngay cả nếu có dù chỉ một mảnh nhỏ của một linh hồn. Có phải một đột biến duy nhất, hay thậm chí có nhiều đột biến, đủ để đem cho một con vật một bản chất an toàn vững chắc chống lại tất cả những thay đổi, bao gồm ngay cả cái chết?

Do đó sự hiện hữu của những linh hồn thì chắc chắn không thể chấp nhận được với thuyết tiến hóa. Tiến hóa có nghĩa là thay đổi, và là không có khả năng để tạo ra những thực thể vĩnh cửu. Từ một viễn tượng tiến hóa, điều gần nhất chúng ta có với một bản thể con người là DNA của chúng ta, và phân tử DNA là cỗ xe của những đột biến chứ không phải là chỗ ngồi của một vĩnh cửu. Điều này làm khiếp hãi đông đảo nhiều người, những người thà rằng thích bác bỏ thuyết tiến hóa, thay vì phải buông bỏ những linh hồn của họ.

Tại sao Thị trường Chứng khoán không có Ý thức

Một truyện kể khác được dùng để biện minh cho tính ưu việt của con người nói rằng trong tất cả những loài động vật trên trái đất, chỉ Homo sapiens có một não thức, nghĩa là có lý trí, suy nghĩ, tình cảm, và trí nhớ, do có khả năng tự ý thức và kinh nghiệm về mình và thế giới quanh mình [6]. Não thức là một gì đó rất khác biệt với linh hồn. Não thức không phải là một thực thể vĩnh cửu huyền bí. Cũng không phải là một cơ quan như mắt hay óc. Thay vào đó, não thức là một dòng chảy của những kinh nghiệm chủ quan, chẳng hạn như đau đớn, vui sướng, giận dữ và yêu thương. Những kinh nghiệm tâm lý này đều được làm bằng những cảm giác, những cảm xúc và những suy nghĩ, chúng đều liên kết lẫn với nhau, chúng loé sáng trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, và ngay lập tức biến mất. Sau đó, những kinh nghiệm khác thình lình nháy sáng và đột mất biến, phát sinh chỉ một khoảnh khắc và qua đi mất hết. (Khi suy nghiệm về điều đó, chúng ta thường cố gắng sắp xếp những kinh nghiệm thành những loại riêng biệt như: cảm giác, cảm xúc và suy nghĩ, nhưng trong thực tế chúng đều tất cả trộn lẫn với nhau.) Sự thu tập cực kỳ phấn khích và không kiểm soát được này của những kinh nghiệm tạo hợp thành dòng chảy của hữu thức. Không giống như linh hồn bất diệt, não thức có nhiều phần, nó liên tục thay đổi không ngừng, và không có lý do nào để nghĩ rằng nó thì vĩnh cửu.

Linh hồn là một truyện kể khiến một số người chấp nhận, trong khi những người khác phủ nhận. Nhưng dòng chảy của hữu thức, ngược lại, là thực tại cụ thể, chúng ta trực tiếp chứng kiến từng khoảnh khắc. Đó là điều chắc chắn nhất trên thế giới. Bạn không thể nghi ngờ sự hiện hữu của nó. Ngay cả khi chúng ta bị nghi ngờ chiếm trọn, và tự hỏi: “Có phải những kinh nghiệm chủ quan thực sự hiện hữu?”, Chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng ta đang trải nghiệm nghi ngờ.

Những kinh nghiệm hữu thức tạo thành dòng chảy của hữu thức thì đích xác là gì? Mỗi kinh nghiệm chủ quan có hai đặc điểm cơ bản: cảm giác và ham muốn. Những robot và những computer không có ý thức vì mặc dù chúng có vô số khả năng, chúng không cảm thấy gì và không thèm muốn gì. Một robot có thể có một sensor năng lượng gửi dấu hiệu cho CPU – đơn vị tiến hành trung tâm [7] – của nó khi pin sắp hết. Sau đó robot có thể di chuyển hướng tới một ổ cắm điện, tự cắm vào ổ điên và sạc pin. Tuy nhiên, trong suốt tiến trình này robot không có cảm nghiệm bất cứ gì. Ngược lại, một người nếu cạn kiệt năng lượng tất cảm thấy đói và thèm muốn để ngưng chặn cảm giác khó chịu này. Đó là tại sao chúng ta nói rằng con người là những sinh vật hữu thức và những robot thì không, và tại sao đó là một tội ác để người ta làm việc đến khi họ quị ngã vì đói và kiệt sức, trong khi để những robot làm việc đến khi chúng cạn pin, không mang đến hổ thẹn đạo đức.

Thế còn về những động vật? Có phải chúng có ý thức? Chúng có kinh nghiệm chủ quan? Liệu có ổn không để buộc một con ngựa làm việc cho đến khi nó quị ngã vì kiệt sức? Như đã ghi nhận trước đó, khoa học sự sống hiện nay cho rằng tất cả những động vật loài có vú và loài chim, và ít nhất là một số loài bò sát và loài cá, đều có những cảm giác và những cảm xúc. Tuy nhiên, hầu hết những lý thuyết cập nhật nhất cũng chủ trương rằng những cảm giác và cảm xúc là những algorithm tiến hành-dữ liệu sinh hóa. Vì chúng ta biết rằng những robot và những computer, chúng tiến hành những dữ liệu với không có bất kỳ kinh nghiệm chủ quan nào, có thể những động vật hoạt động cũng giống như thế? Thật vậy, chúng ta biết rằng ngay cả ở người, nhiều mạch não về cảm giác và cảm xúc có thể tiến hành-dữ liệu và khởi động những hành động hoàn toàn vô thức. Vì vậy, có lẽ đằng sau tất cả những cảm giác và cảm xúc của chúng ta gán cho động vật – đói, sợ hãi, yêu và trung thành – chỉ có những algorithm vô thức rình rập chứ không phải những kinh nghiệm chủ quan?[8]

Lý thuyết này được người đánh dấu giai đoạn mở đầu triết học của thời mới ngày nay, René Descartes duy trì. Trong thế kỷ XVII, Descartes đã chủ trương rằng chỉ có con người biết cảm nhận và thèm muốn, trong khi tất cả những loài động vật khác là những cỗ máy tự động, không ý thức [9], tương tự như một robot hay một máy bán hàng tự động. Khi một người đá một con chó, con chó không kinh nghiệm gì cả. Con chó co rúm lại và sủa một cách tự động, giống như một máy bán hàng tự động kêu lịch xịch, làm một cốc cà phê, mà không cảm thấy hay mong muốn bất cứ một gì.

Lý thuyết này đã được chấp nhận rộng rãi trong thời Descartes. Những y sĩ và học giả thế kỷ XVII đã mổ những con chó sống và quan sát sự hoạt động những cơ quan trong cơ thể chúng, mà không có một trong hai, thuốc mê lẫn ngại ngùng. Họ không nhìn thấy bất cứ gì sai với việc đó, giống đúng như chúng ta không nhìn thấy có bất cứ gì sai trong việc mở nắp của một máy bán hàng tự động, và quan sát những bánh răng cưa và băng dây chuyền đang quay của nó. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, vẫn có rất nhiều người đã cho rằng những động vật không có ý thức, hoặc ít nhất, chúng có một loại ý thức.rất khác biệt và thấp kém hơn.

Để quyết định xem động vật có não thức hữu thức tương tự như của riêng chúng ta, đầu tiên chúng ta phải có được một sự hiểu biết tốt hơn về những não thức vận hành thế nào, và những vai trò của chúng. Đây là những câu hỏi vô cùng khó khăn, nhưng vẫn rất đáng để dành thời gian cho chúng, vì não thức sẽ là ‘người hùng’ trong nhiều chương tiếp theo. Chúng ta sẽ không thể nắm giữ được những quan hệ mật thiết đầy đủ của những công nghệ mới lạ, như trí tuệ nhân tạo, nếu chúng ta không biết những não thức là gì. Do đó, hãy tạm thời để qua một bên câu hỏi cụ thể về não thức của động vật, và xem xét kỹ lưỡng xem khoa học biết gì về não thức và ý thức nói chung. Chúng ta sẽ tập trung vào những thí dụ lấy từ những nghiên cứu về ý thức con người – đó là dễ tiếp cận hơn đối với chúng ta – và sau đó trở lại với những động vật, và hỏi xem những gì là đúng thực với con người, có cũng là đúng thực với với những họ hàng xa gần có lông và có cánh của chúng ta hay không.

Nói bộc trực, khoa học biết ít về não thức và hữu thức, rất ít đến phải ngạc nhiên. Lý thuyết chính thống hiện nay cho rằng ý thức được tạo thành bởi những phản ứng điện hoá học trong óc, và rằng những kinh nghiệm tinh thần hoàn thành một số chức năng thiết yếu của tiến hành-dữ liệu.[10] Tuy nhiên, không ai có được một bất kỳ ý tưởng nào về một đám rối bòng bong gồm những phản ứng sinh hóa và dòng điện trong óc, chúng tạo những kinh nghiệm chủ quan về đau đớn, giận dữ hay thương yêu như thế nào. Có lẽ chúng ta sẽ có một lời giải thích vững chắc trong mười hay năm mươi năm tới. Nhưng hiện nay đang năm 2016, chúng ta không có lời giải thích nào như vậy, và chúng ta tốt hơn nên nói rõ ràng về điều đó.

Dùng fMRI để rà quét, cấy ghép những đầu điện cực và những dụng cụ cơ điện tinh vi khác, những nhà khoa học đã xác định chắc chắn được những tương quan và ngay cả những liên kết nhân quả giữa những dòng điện trong não và những kinh nghiệm chủ quan khác nhau. Chỉ bằng cách nhìn vào hoạt động của não, những nhà khoa học có thể biết có phải bạn đang tỉnh, mơ, hay ngủ sâu. Họ có thể bật chiếu thật nhanh một hình ảnh trước mắt của bạn, đúng tại ngưỡng cửa của sự nhận thức hữu thức, và xác định (không hỏi bạn) không biết bạn đã trở thành nhận biết được hình ảnh hay không. Họ thậm chí xoay sở để liên kết được những nơrôn não riêng rẽ với nội dung tâm lý cụ thể, tìm thấy rằng, lấy thí dụ, một nơrôn (đặt tên là) “Bill Clinton” và một nơrôn (đặt tên là) “Homer Simpson”. Khi nơrôn Bill Clinton bật lên hoạt động, cá nhân này đang nghĩ về người tổng thống thứ 42 của USA; cho cá nhân đó thấy một hình ảnh của nhân vật Homer Simpson, và những nơrôn gọi cùng tên bật lên khởi động.

Nói rộng hơn, những nhà khoa học biết rằng nếu một cơn bão điện nổi lên trong một vùng não nhất định, bạn có lẽ có tình cảm tức giận. Nếu cơn bão này giảm đi, và một vùng khác sáng lên – bạn đang có kinh nghiệm về thương yêu. Thật vậy, những nhà khoa học thậm chí có thể đưa vào những tình cảm tức giận hay thương yêu bằng cách dùng điện để kích thích những nơrôn đúng (tương ứng của chúng). Nhưng hết sức quái lạ không hiểu nổi là làm thế nào sự chuyển động của những electron từ chỗ này sang chỗ khác lại chuyển vào thành một hình ảnh chủ quan của Bill Clinton, hay một tình cảm chủ quan của tức giận hay thương yêu?

Giải thích phổ biến nhất chỉ ra rằng bộ óc là một hệ thống hết sức phức tạp, với hơn 80 tỉ nơrôn kết nối vào thành những mạng lưới chi li phức tạp khó hiểu. Khi hàng tỉ nơrôn gửi qua lại hàng tỉ tín hiệu điện, những kinh nghiệm chủ quan xuất hiện. Mặc dù việc gửi và nhận của mỗi tín hiệu điện là một hiện tượng sinh hóa đơn giản, tác động qua lại giữa những tín hiệu này tạo ra một gì đó hết sức phức tạp hơn nhiều – dòng chảy của hữu thức. Chúng ta quan sát những động lực tương tự trong nhiều lĩnh vực khác. Sự chuyển động của một chiếc xe duy nhất là một hành động đơn giản, nhưng khi hàng triệu chiếc xe di chuyển và tác động qua lại đồng thời, nghẽn xe cộ lưu thông xuất hiện. Việc mua và bán một cổ phần duy nhất thì đơn giản, nhưng khi hàng triệu người mua bán cổ phần, mua và bán hàng triệu cổ phần chứng khoán cùng một lượt, hoạt động đó có thể dẫn đến những khủng hoảng kinh tế làm kinh ngạc ngay cả những nhà chuyên môn.

Tuy nhiên, giải thích này không giải thích gì cả. Nó hoàn toàn chỉ đủ để xác định rằng vấn đề thì rất phức tạp. Nó không cung cấp bất kỳ một cái nhìn sâu xa thấu đáo nào vào trong vấn đề một loại hiện tượng (hàng tỷ những tín hiệu điện di chuyển từ đây đến kia) tạo ra một loại hiện tượng khác rất khác biệt (kinh nghiệm chủ quan của tức giận hay yêu thương) như thế nào. So sánh tương tự với những tiến trình phức tạp khác như nghẽn xe cộ lưu thông và những cuộc khủng hoảng kinh tế là thiếu sót. Những gì tạo ra xe cộ bị nghẽn lưu thông? Nếu bạn theo dõi chỉ một chiếc xe duy nhất, bạn sẽ không bao giờ hiểu được nó. Sự tắc nghẽn là kết quả từ những tác động qua lại giữa nhiều ô tô. Xe A ảnh hưởng đến chuyển dịch của xe B, vốn nó chắn đường của xe C, và tiếp lục như vậy. Tuy nhiên, nếu bạn có bản đồ di chuyển của tất cả những chiếc xe liên quan, và mỗi xe tác động xe khác thế nào, bạn sẽ có được một giải thích đầy đủ của sự tắc nghẽn lưu thông. Sẽ là điều vô nghĩa để hỏi, “Nhưng làm thế nào để tất cả những chuyển động này tạo ra tắc nghẽn lưu thông?” Vì “tắc nghẽn lưu thông” chỉ đơn giản là một thuật ngữ trừu tượng con người chúng ta đã quyết định dùng để chỉ kết tập đặc biệt này của những sự kiện xảy ra.

Ngược lại, “tức giận” không phải là một thuật ngữ trừu tượng mà chúng ta đã quyết định để dùng như một cách viết tắt cho hàng tỉ những tín hiệu điện chạy trong óc. Tức giận là một kinh nghiệm trải qua, cực kỳ cụ thể mà mọi người đã quen thuộc với nó, rất lâu trước khi họ biết gì về điện. Khi tôi nói, “Tôi tức giận!” Tôi trỏ vào một cảm giác rất rõ ràng và thực như có thể chạm vào được. Nếu bạn mô tả một phản ứng hóa học trong một nơrôn có kết quả trong một tín hiệu điện như thế nào, và hàng tỉ những phản ứng tương tự dẫn đến thêm hàng tỉ những tín hiệu khác nữa như thế nào, nó vẫn còn là có giá trị để hỏi, “Nhưng làm thế nào để hàng tỉ những sự kiện này chúng đến với nhau để tạo ra cảm giác tức giận chắc thực của tôi?”

Khi hàng ngàn những chiếc xe né tránh nhau, lăn bánh chậm chạp từng vòng một, trên đường qua lại của chúng ở London, chúng ta gọi đó là một tắc nghẽn lưu thông, nhưng nó không tạo ra một vài hữu thức thật lớn nào đó thuộc thành phố London, bay lượn cao trên công trường Piccadilly, và nói với bản thân, “Ồ, tôi cảm thấy bị nghẽn!” Khi hàng triệu người bán hàng tỉ cổ phần, chúng ta gọi đó là một cuộc khủng hoảng kinh tế, nhưng không có tinh thần thuộc thị trường chứng khoán Wall Street lớn nào càu nhàu, “Chết tiệt, tôi cảm thấy tôi đang trong khủng hoảng.” Khi hàng nghìn tỉ của những molecule nước kết thành một khối trên bầu trời, chúng ta gọi đó là một đám mây, nhưng không ‘hữu thức mây’ nào xuất hiện thông báo: “tôi cảm thấy mưa.” Thế là thế nào, sau đó, rằng khi hàng tỉ những tín hiệu điện di chuyển vòng quanh nội bên trong óc tôi, một não thức nổi lên cảm thấy “tôi tức giận!”? Cho đến năm 2016, chúng ta hoàn toàn không có lấy được một ý tưởng nào để hiểu.

Do đó nếu thảo luận này đã để cho bạn lại với mù mờ lẫn lộn và rối rắm khó hiểu, bạn đang trong một khối rất đông đảo những người giống như bạn. Những nhà khoa học giỏi nhất cũng thế, có một chặng đường dài để đi đến khai mở ra được bí ẩn của não thức và hữu thức. Một trong những điều tuyệt vời về khoa học là khi những nhà khoa học không biết một gì đó, họ có thể thử tất cả đủ mọi loại những lý thuyết và những cục diện, tình thế, nhưng cuối cùng họ có thể chỉ thú nhận sự thiếu hiểu biết của họ.

Phương trình của Sự sống

Những nhà khoa học không biết một thu tập của những tín hiệu não điện tạo ra những kinh nghiệm chủ quan như thế nào. Thậm chí một điều cốt yếu quan trọng hơn, là họ không biết những gì có thể là lợi thế về tiến hóa của một hiện tượng như vậy. Đây là khoảng trống lớn nhất trong sự hiểu biết của chúng ta về sự sống. Con người có hai bàn chân, vì trong hàng triệu những thế hệ, bàn chân đã cho tổ tiên chúng ta khả năng để đuổi theo những con thỏ và chạy thoát những con sư tử. Con người có mắt, vì trong vô số những hàng nghìn năm đôi mắt đã cho phép những người trước chúng ta để xem con thỏ chạy hướng nào, và con sư tử đang từ đâu đến. Nhưng tại sao con người có những kinh nghiệm chủ quan về đói và sợ hãi?

Trước đây không lâu, những nhà sinh học đã đưa ra một trả lời rất đơn giản. Những kinh nghiệm chủ quan là thiết yếu cho sự sống còn của chúng ta, vì nếu chúng ta không cảm thấy đói hoặc sợ, chúng ta sẽ không bõ công phiền hà để đuổi theo thỏ và chạy trốn sư tử. Khi nhìn thấy một con sư tử, tại sao một người chạy trốn? Vâng, người ấy sợ quá, thế nên người ấy bỏ chạy. Những kinh nghiệm chủ quan đã giải thích những hành động của con người. Tuy nhiên, ngày nay những nhà khoa học cung cấp một giải thích chi tiết hơn nhiều. Khi một người nhìn thấy một con sư tử, những tín hiệu điện di chuyển từ mắt đến óc. Những tín hiệu đến nơi kích thích một số nơrôn nhất định, chúng phản ứng bằng cách bắn ra nhiều những tín hiệu hơn. Những tín hiệu này kích thích những nơrôn khác chạy xuống theo dòng phản ứng, vốn đến lượt của chúng, chúng lại bắn đi thêm những tín hiệu. Nếu đủ số của những nơrôn đúng, bắn đi với tốc độ đủ nhanh, những mệnh lệnh được gửi đến những tuyến thượng thận làm ngập cơ thể với adrenaline, tim được hướng dẫn để đập nhanh hơn, trong khi nơrôn ở trung tâm chuyển động gửi tín hiệu xuống đến những bắp thịt chân, khiến chúng bắt đầu co và dãn, và người đó chạy xa thoát con sư tử.

Trớ trêu thay, chúng ta ghi chép tiến trình này càng chi tiết hơn, trở thành càng khó khăn hơn để giải thích những tình cảm hữu thức. Chúng ta càng hiểu bộ óc thêm nhiều hơn, não thức dường như càng trở thành dư thừa. Nếu toàn bộ hệ thống làm việc bằng những tín hiệu điện chạy từ đây đến kia, chúng ta cần quái gì để cũng phải cảm thấy sợ hãi? Nếu một chuỗi những phản ứng điện hoá học dẫn chạy từ những nơrôn trong mắt suốt tới những chuyển động của những bắp thịt chân, tại sao lại thêm những kinh nghiệm chủ quan vào chuỗi (tác động) này? Chúng làm gì? Vô số những quân bài domino có thể đổ xuống một loạt, quân này nối tiếp quân kia, không cần bất cứ kinh nghiệm chủ quan nào. Tại sao những nơrôn cần những xúc động tình cảm để kích thích lẫn nhau, hoặc để bảo tuyến thượng thận hãy bắt đầu bơm? Thật vậy, 99 phần trăm của những hoạt động của cơ thể, gồm chuyển động bắp thịt và tiết hormon, đều diễn ra không cần đến những tình cảm hữu thức. Vậy tại sao những nơrôn, những bắp thịt, và những tuyến nội tiết lại cần những tình cảm như vậy trong 1 phần trăm còn lại của những trường hợp?

Bạn có thể biện luận rằng chúng ta cần một não thức vì não thức giữ những ký ức, lập những chương trình, và tự động loé sáng những hình ảnh và ý tưởng hoàn toàn mới. Nó không chỉ đáp ứng với những kích thích từ bên ngoài. Lấy thí dụ, khi một người nhìn thấy một con sư tử, ông không tự động phản ứng trước hình ảnh con vật ăn thịt người. Ông nhớ lại năm ngoái, một con sư tử ăn thịt người dì của mình. Ông tưởng tượng ông sẽ cảm thấy thế nào nếu một con sư tử xé ông ra những mảnh nhỏ. Ông suy ngẫm về số phận những đứa con sẽ mồ côi của mình. Đó là tại sao ông chạy trốn. Thật vậy, nhiều những phản ứng dây chuyền bắt đầu với sáng kiến riêng của não thức hơn là với bất kỳ kích thích trực tiếp bên ngoài nào. Vì vậy, nhớ lại về một vài vụ sư tử tấn công trước đây có thể đột ngột bật lên trong não thức một người, đặt người ấy suy nghĩ về sự nguy hiểm những con sư tử đã gây ra. Sau đó người ấy gọi tất cả những người khác trong bộ lạc với nhau, và họ nặn óc suy nghĩ tìm những cách thức mới để dọa cho sư tử bỏ đi.

Nhưng khoan, hãy đợi một chút. Tất cả những kỷ niệm, tưởng tượng và suy nghĩ này là những gì? Chúng tồn tại nơi nào? Theo lý thuyết sinh học hiện nay, những ký ức, tưởng tượng và suy nghĩ của chúng ta không tồn tại trong một vài lĩnh vực phi vật chất nào cao hơn. Thay vào đó, chúng cũng là những đám núi tuyết lở của những tín hiệu điện do hàng tỉ nơrôn bắn đi. Do đó, ngay cả khi chúng ta hình dung trong những ký ức, những tưởng tượng và những suy nghĩ, vẫn còn lại với chúng ta một loạt những chuỗi phản ứng điện hoá học chạy qua hàng tỉ nơrôn, kết thúc với hoạt động của những tuyến thượng thận và những bắp thịt chân.

Ngay cả có phải là có một bước duy nhất trên hành trình dài và quanh co này, giữa hành động của một nơrôn và phản ứng của nơrôn tiếp theo, ở chỗ đó não thức can thiệp và quyết định xem liệu nơrôn thứ hai có nên bắn đi hay không? Có bất kỳ một chuyển động vật chất nào, thậm chí của một electron duy nhất, do kinh nghiệm chủ quan của sự sợ hãi gây nên, hơn là sự chuyển động trước đó của một số electron khác gây nên? Nếu không có chuyển động loại giống như vậy – và nếu mỗi electron chuyển dịch vì electron khác đã chuyển dịch trước đó – tại sao chúng ta cần để kinh nghiệm với sợ hãi? Chúng ta chẳng có đầu mối nào để mò ra lời đáp.

Những nhà triết học đã gói bí ẩn này trong một câu hỏi gài bẫy ngầm: Những gì xảy ra trong não thức nhưng không xảy ra trong bộ óc? Nếu không có gì xảy ra trong não thức, ngoại trừ những gì xảy ra trong mạng lưới nơrôn khổng lồ của chúng ta – khi đó, tại sao chúng ta cần não thức? Nếu một gì đó thực sự xảy ra trong não thức hơn thêm và bên trên những gì xảy ra trong mạng lưới nơrôn – nó xảy ra ở chốn quái quỉ nào? Giả sử tôi hỏi bạn nhân vật Homer Simpson nghĩ gì về Bill Clinton và vụ bê bối với cô Monica Lewinsky. Bạn có lẽ không bao giờ nghĩ về điều này trước đó, vì vậy não thức của bạn bây giờ cần phải hợp nhất hai kỷ niệm trước đó không có liên quan, có lẽ bằng cách nhớ lại hình ảnh của anh chàng Homer uống bia khi xem tivi nghe tổng thống tai tiếng này nói câu: “Tôi đã không có quan hệ tình dục nào với người đàn bà đó” của ông ta. Sự nối kết ký ức này xảy ra ở đâu?

Một số nhà khoa học về bộ óc cho rằng nó xảy ra trong “không gian hợp chung để làm việc”, được những tác động qua lại của nhiều neuron tạo ra. [11] Tuy nhiên từ “không gian làm việc” chỉ là một ẩn dụ. thực tại đằng sau ẩn dụ là gì? Chỗ nào những mảnh thông tin khác biệt thực sự gặp nhau và kết hợp? Theo lý thuyết hiện nay, chắc chắn nó không diễn ra ở một vài “chiều thứ năm” nào đó theo kiểu Plato. Thay vào đó, nó diễn ra, hãy nói, chỗ nào có hai nơrôn trước đó chưa được nối, nay đột nhiên bắt đầu bắn những tín hiệu với nhau. Một khớp nối neuron mới được thành hình giữa nơrôn Bill Clinton và nơrôn Homer Simpson. Nhưng nếu như vậy, tại sao chúng ta cần kinh nghiệm hữu thức của ký ức hơn thêm và bên trên sự kiện vật lý của hai nơrôn kết nối?

Chúng ta có thể đặt cùng một câu đố này theo những thuật ngữ toán học. Giáo điều (những ‘tin chắc như đinh đóng cột’ của những nhà khoa học) ngày nay chủ trương rằng những cơ cấu sinh vật đều là những algorithm, và rằng những algorithm có thể được trình bày trong hình thức những công thức toán học. Bạn có thể dùng những con số và ký hiệu toán để viết một chuỗi gồm những bước vốn một máy bán hàng tự động cần để sửa soạn một tách trà, và một chuỗi gồm những bước vốn một bộ óc thường có khi nó hoảng hốt thấy một con sư tử đến gần. Nếu như vậy, và nếu những kinh nghiệm hữu thức thực hiện một số những chức năng quan trọng, chúng phải có một biểu diễn bằng toán học. Vì chúng là một phần thiết yếu của algorithm. Khi chúng ta viết algorithm của sự sợ hãi, và phá vỡ “sợ hãi” xuống thành một loạt những tính toán chính xác, chúng ta có thể chỉ ra: “Chỗ này, bước số 93 trong quá trình tính toán – đây là kinh nghiệm chủ quan của sự sợ hãi”; nhưng có bất kỳ một algorithm nào trong lĩnh vực bao la của toán học có chứa một kinh nghiệm chủ quan? Cho đến nay, chúng ta không biết có bất kỳ một algorithm nào như vậy. Mặc dù hiểu biết rộng rãi chúng ta đã đạt được trong những lĩnh vực của toán học và khoa học computer, không có những hệ thống tiến hành-dữ liệu nào chúng ta đã tạo ra lại cần những kinh nghiệm chủ quan để hoạt động theo qui định, và không một hệ thống nào cảm thấy đau đớn, vui sướng, tức giận hay yêu thương.[12]




Có lẽ chúng ta cần những kinh nghiệm chủ quan để suy nghĩ về bản thân mình? Một con vật lang thang trên đồng cỏ và tính toán những cơ may của nó để tồn tại và sinh sản phải trình bày lại những hành động và quyết định của nó với chính nó, và đôi khi thông tin chúng với những động vật khác. Khi não cố gắng để tạo ra một mô hình của những quyết định riêng của chính nó, nó bị mắc kẹt trong một sự vòng vo lạc đề, lệch khỏi những lối chính, đến vô tận, và ‘úm ba la ra cái gì đây!’ Ra khỏi vòng quẩn quanh tít mù này, hữu thức bật ra.

Năm mươi năm trước đây, điều này có thể đã nghe xuôi tai thuận hợp, nhưng năm 2016 thì không. Nhiều công ty lớn, chẳng hạn như Google và Tesla, đang nghiên cứu kỹ thuật và sản xuất những xe ô tô tự lái, chúng đã đang chạy trên đường phố của chúng ta. Những algorithm điều khiển xe tự điều khiển này làm hàng triệu phép tính mỗi giây về những xe khác, những người đi bộ, những đèn lưu thông và những ổ gà. Chiếc xe tự động dừng lại ở những đèn đỏ, vượt qua những trở ngại, và giữ một khoảng cách an toàn với những loại xe khác – tất cả đều thành công mà không cảm nhận bất kỳ một sợ hãi nào. Chiếc xe cũng cần phải đưa chính nó vào tính toán và thông báo những dự định và mong muốn của nó với những xe khác xung quanh, vì nếu nó quyết định lách sang bên phải, làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến ‘ứng xử’ của chúng. Chiếc xe làm tất cả như thế mà không có bất kỳ vấn đề nào – và cũng không có bất kỳ ý thức nào. Chiếc xe tự lái không phải là đặc biệt. Nhiều program trong computer khác cũng thực hiện những gì được cho phép hay ấn định trong những hoạt động của chúng, nhưng không một nào trong số chúng đã phát triển ý thức, và không một nào cảm thấy, hoặc mong muốn bất cứ gì cả.[13]

Nếu chúng ta không thể giải thích não thức được, và nếu chúng ta không biết nó có đáp ứng những chức năng nào không, tại sao không chỉ đơn giản là loại bỏ nó? Lịch sử của khoa học thì đầy những khái niệm và lý thuyết đã bị bỏ rơi. Lấy thí dụ, những nhà khoa học ở đầu thời nay là những người đã từng cố gắng để giải thích sự chuyển động của ánh sáng, họ đã nêu lên sự hiện hữu của một chất gọi là ether, đã được giả định vẫn có đầy trong tất cả vũ trụ. Ánh sáng đã được cho là những sóng ether. Tuy nhiên, những nhà khoa học thất bại, đã không tìm được bất kỳ bằng chứng thực nghiệm nào cho sự hiện hữu của chất ether đó, trong khi họ đã đưa ra giả thuyết thay thế khác và hay hơn về ánh sáng. Do đó, họ đã đã ném ether vào thùng rác của khoa học.



Xe ô tô tự lái của Google trên đường phố.

Tương tự như vậy, trong hàng nghìn năm con người đã dùng Gót để giải thích vô số những hiện tượng tự nhiên. Điều gì gây sét đánh? Gót!. Điều làm mưa rơi? Gót! Sự sống trên trái đất bắt đầu thế nào? Gót đã tạo ra nó! [14] Trong vài thế kỷ vừa qua những nhà khoa học đã không tìm được bất kỳ một bằng chứng thực nghiệm nào về sự hiện hữu của Gót, trong khi họ đã tìm thấy những giải thích chi tiết hơn cho hiện tượng sét đánh, mưa rơi, và nguồn gốc của sự sống. Do đó, với ngoại lệ của một vài lĩnh vực phụ, nhỏ của triết học, không có bài viết nào loại cho đồng nghiệp duyệt xét trong bất kỳ tạp chí khoa học nào đã lấy sự hiện hữu của Gót là luận cứ nghiêm chỉnh. Những nhà sử học không biện luận rằng những nước Đồng minh thắng Thế chiến thứ Hai, vì Gót đã đứng về phía họ; những nhà kinh tế không đổ lỗi cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 cho Gót; và những nhà địa chất không gọi tên của Gót để giải thích những chuyển động của mảng kiến tạo trên vỏ quả đất. [15]

Cùng một số phận tương tự cũng xảy ra với ‘linh’ hồn. Trong hàng nghìn năm người ta đã tin rằng tất cả những hành động và quyết định của chúng ta bắt nguồn từ những linh hồn của chúng ta. Tuy nhiên, trong sự vắng mặt của bất kỳ bằng chứng hỗ trợ nào, và với sự có mặt của những lý thuyết thay thế nhiều chi tiết hơn, khoa học sự sống đã ném những linh hồn xuống cống. Như những cá nhân, nhiều nhà sinh học và những y sĩ có thể vẫn tiếp tục tin vào những linh hồn. Tuy nhiên, họ không bao giờ viết về chúng trong những tạp chí khoa học chuyên ngành hay phổ thông đứng đắn.

Có lẽ não thức nên cùng nắm tay những linh hồn, Gót và ether vào trong thùng rác của khoa học? Sau rốt, không có ai đã từng nhìn thấy những kinh nghiệm đau đớn, hay thương yêu qua một kính hiển vi, và chúng ta có một giải thích rất chi tiết sinh hóa học cho đau đớn và yêu thương khiến không còn chỗ nào cho những kinh nghiệm chủ quan. Tuy nhiên, có một sự khác biệt quan trọng giữa não thức và linh hồn (cũng như giữa não thức và Gót). Trong khi sự tồn tại của linh hồn vĩnh cửu là thuần phỏng đoán, kinh nghiệm của đau đớn là một thực tại trực tiếp và rất hữu hình. Khi tôi đạp lên vào một cái đinh, tôi có thể có 100 phần trăm chắc chắn rằng tôi cảm thấy đau (thậm chí nếu đến lúc đó, tôi vẫn thiếu một giải thích khoa học về nó). Ngược lại, tôi không thể chắc chắn rằng nếu những vết thương trở nên bị nhiễm độc và tôi chết vì chứng hoại thư [16] , linh hồn của tôi sẽ tiếp tục tồn tại. Đó là một chuyện rất thích thú và rất an ủi mà tôi sẽ rất sung sướng để tin theo, nhưng tôi không có bằng chứng trực tiếp nào cho tính xác thực của nó. Vì tất cả những nhà khoa học liên tục kinh nghiệm những cảm giác chủ quan như đau và nghi ngờ, họ không thể phủ nhận sự hiện hữu của chúng.

Một cách khác để bỏ rơi não thức và hữu thức là bằng cách phủ nhận sự liên quan của chúng chứ không phải là sự hiện hữu của chúng. Một số nhà triết học, khoa học – như Daniel Dennett và Stanislas Dehaene – biện luận rằng tất cả những câu hỏi liên quan đều có thể trả lời được bằng cách nghiên cứu những hoạt động của não, mà không cần bất kỳ trợ giúp nào từ những kinh nghiệm chủ quan. Như thế, những nhà khoa học có thể an toàn xóa “tâm”, “hữu thức” và “những kinh nghiệm chủ quan” khỏi ngữ vựng và những bài viết của họ. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy trong những chương tiếp theo, toàn bộ hệ thống phức tạp gồm những tin tưởng của chính trị và đạo đức ngày nay được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm chủ quan, và một số những đilemma đạo đức có thể được giải quyết bằng cách nhắc dẫn chặt chẽ với những hoạt động của bộ óc. Lấy thí dụ, tra tấn hoặc hiếp dâm có gì sai trái? Từ một quan điểm hoàn toàn về mặt hoạt động của hệ thần kinh, khi một người bị tra tấn hoặc hãm hiếp, một số phản ứng sinh hóa học nào đó xảy ra trong não, và nhiều tín hiệu điện của những loại khác biệt di chuyển từ một đám nơrôn này sang một đám khác. Có gì có thể là sai trái với hoạt động của hệ thần kinh như thế đó? Nhưng hầu hết mọi người ngày nay đều cảm thấy nhờm tởm trong đạo đức trước sự tra tấn và hãm hiếp vì những kinh nghiệm chủ quan có liên quan. Nếu bất kỳ nhà khoa học nào muốn biện luận rằng những kinh nghiệm chủ quan là không liên quan, thách đố của họ là để giải thích tại sao tra tấn hoặc hiếp dâm là sai mà không tham chiếu đến bất kỳ kinh nghiệm chủ quan nào.

Cuối cùng, một số nhà khoa học đành thừa nhận rằng hữu thức là thực, và có thể thực sự có giá trị đạo đức và chính trị to lớn, nhưng nó không đáp ứng chức năng sinh học nào hết tất cả. Hữu thức là sản phẩm-phụ, không định có, vô dụng về phương diện sinh học của những tiến trình nhất định nào đó trong não. Động cơ phản lực nổ vang ầm ầm, nhưng tiếng ầm ầm đó không đẩy máy bay về phía trước. Con người không cần carbon dioxide, nhưng mọi và mỗi hơi thở làm đầy không khí với nhiều carbon dioxide hơn. Tương tự như vậy, hữu thức có thể là một loại ô nhiễm tinh thần, bộ óc đã sản xuất từ sự bắn đi hay phóng tới của mạng lưới thần kinh phức tạp. Nó không làm bất cứ gì cả. Nó thì chỉ có đó. Nếu điều này là đúng, nó hàm ý rằng tất cả những đau đớn và vui sướng đã được hàng tỉ sinh vật trong hàng triệu năm có kinh nghiệm, đều chỉ là những ô nhiễm tinh thần. Điều này chắc chắn là một ý tưởng đáng suy nghĩ, Ngay cả nếu nó không là sự thật. Nhưng ngạc nhiên hết sức để nhận ra rằng, ở thời điểm năm 2016, đây là lý thuyết hay nhất về hữu thức mà khoa học thời nay có để cung cấp cho chúng ta.

Có lẽ ngành khoa học sự sống nhìn vấn đề từ góc độ sai. Họ tin rằng sự sống thì tất cả là về tiến hành-dữ liệu, và rằng những sinh vật là những bộ máy để làm những phép tính và những quyết định. Tuy nhiên, suy diễn từ so sánh tương tự này giữa những sinh vật và những algorithm có thể đánh lừa chúng ta. Trong thế kỷ XIX, những nhà khoa học mô tả những bộ óc và những não thức như thể chúng là những động cơ hơi nước. Tại sao lại động cơ hơi nước? Vì đó là kỹ thuật dẫn đầu của thời đó, nó cung cấp năng lực cho xe hoả, tàu thuỷ, và những nhà máy, vì vậy khi con người đã cố gắng để giải thích sự sống, họ giả định rằng nó phải làm việc theo cùng những nguyên lý tương tự. Não thức và cơ thể được làm bằng những ống dẫn tròn dài, những xylanh, van và píttông, chúng nén và xả áp lực, do đó tạo những chuyển động và hành động. Suy nghĩ theo lối như vậy đã có ảnh hưởng sâu xa ngay cả trong tâm lý học của Freud, đó là tại sao nhiều thuật ngữ tâm lý của chúng ta là vẫn đầy với những khái niệm vay mượn từ kỹ thuật cơ khí.

Hãy xem xét, lấy thí dụ, lập luận sau của Freud: “quân đội gò ép xung lực tình dục làm nhiên liệu cho tính hung hăng gây hấn quân sự. Quân đội tuyển những thanh niên đúng khi xung lực tình dục của họ ở đỉnh cao của nó. Quân đội hạn chế những cơ hội có quan hệ tình dục và giải toả thực sự tất cả những dồn nén đó của những quân nhân, hệ quả là chúng tích luỹ bên trong họ. Quân đội sau đó chuyển hướng áp lực dồn nén này và cho phép nó được thoát xả dưới hình thức hung hãn nhà binh” Đây chính là cách một động cơ hơi nước hoạt động. Bạn dồn nhốt hơi nước sôi bên trong một hộp kín. Hơi nước tích tụ nhiều hơn và áp lực tăng nhiều hơn, cho đến khi đột nhiên bạn mở một van, và cho áp lực thoát ra theo một hướng đã định trước, khai thác nó để đẩy một xe lửa, hoặc một khung cửi. Không chỉ trong quân đội, nhưng trong tất cả những lĩnh vực hoạt động, chúng ta thường xuyên phàn nàn về những áp lực dâng cao trong chúng ta, và chúng ta sợ rằng trừ khi chúng ta “cho một số hơi thoát ra”, chúng ta có thể nổ tung.

Ở thế kỷ XXI, nghe có vẻ trẻ con để so sánh tâm lý con người với một động cơ hơi nước. Ngày nay chúng ta biết về một công nghệ tinh xảo hơn rất nhiều – máy computer – vì vậy chúng ta giải thích tâm lý con người như thể nó là một computer tiến hành-dữ liệu hơn là một động cơ hơi nước điều chỉnh áp lực. Nhưng so sánh tương tự mới này có thể quay ra là cũng ngây thơ đúng như thế. Dầu sao chăng nữa, những computer không có não thức. Chúng không nài xin bất cứ gì, Ngay cả khi chúng ‘vướng một lỗi’ [17], và Internet không cảm thấy đau ngay cả khi những chế độ độc tài cắt tất cả quốc gia khỏi Web. Vì vậy, tại sao dùng những computer như một mô hình cho sự tìm hiểu não thức?

Vâng, chúng ta có thực chắc chắn rằng những computer không có những cảm giác hay những ham muốn? Và ngay cả nếu hiện nay chúng không có một bất kỳ nào, có lẽ một khi chúng trở nên đủ phức tạp, chúng có thể phát triển ý thức? Nếu điều đó có sẽ xảy ra, chúng ta có thể xác định được nó như thế nào? Khi những computer thay thế tài xế xe buýt của chúng ta, thày giáo của chúng ta và nhà tâm lý trị liệu của chúng ta, làm thế nào chúng ta có thể xác định liệu chúng có tình cảm, hay liệu chúng chỉ là một tụ hợp của những algorithm không có não thức?

Khi nói đến con người, ngày nay chúng ta có khả năng để phân biệt giữa những kinh nghiệm tinh thần hữu thức và những hoạt động vô thức của bộ óc. Mặc dù đối với sự hiểu biết về hữu thức chúng ta hãy còn xa vời, những nhà khoa học đã thành công trong việc xác định một số những dấu hiệu nhận diện của nó về điện hoá học. Để làm như vậy những nhà khoa học bắt đầu với giả định rằng bất cứ khi nào con người tường trình rằng họ có ý thức về một gì đó, có thể tin tưởng họ được. Dựa trên giả định này, những nhà khoa học sau đó có thể cô lập những mẫu hình não cụ thể đặc biệt vốn xuất hiện mỗi khi người tường trình là đang có ý thức, nhưng điều đó không bao giờ xuất hiện trong những trạng thái (của người) bất tỉnh.

Điều này đã cho phép những nhà khoa học, lấy thí dụ, để xác định một nạn nhân khi óc đột ngột bị mất máu, não không hoạt đông, người thành như cây cỏ, có phải đã hoàn toàn mất ý thức, hay đã chỉ mất có sự kiểm soát cơ thể và lời nói của mình. Nếu não của người bệnh hiện ra những dấu hiệu nhận diện của ý thức, người bệnh có lẽ là vẫn có ý thức, mặc dù không thể chuyển động hoặc nói chuyện. Thật vậy, mới đây những y sĩ đã tìm được cách để thông tin với những người bệnh này dùng hình ảnh fMRI. Họ hỏi những người bệnh những câu hỏi loại “có/không”, bảo họ tưởng tượng mình chơi tennis nếu câu trả lời là có, và hãy hình dung vị trí của nhà họ nếu câu trả lời là không. Sau đó những y sĩ có thể quan sát phần motor cortex sáng lên lên khi người bệnh tưởng tượng chơi quần vợt (có nghĩa là “có”), trong khi “không”, được chỉ định bởi sự hoạt động của những vùng não chịu trách nhiệm về spacial memory.[18]

Đây tất cả thì rất tốt cho con người, nhưng còn về những computer? Vì những computer dựng trên silicon có cấu trúc rất khác biệt với những mạng thần kinh dựng trên carbon của con người, những dấu hiệu nhận diện của ý thức của con người có thể không liên quan với chúng. Chúng ta dường như bị mắc kẹt trong một vòng luẩn quẩn. Bắt đầu với giả định rằng chúng ta có thể tin con người khi họ bảo rằng họ có ý thức, chúng ta có thể xác định những dấu hiệu của ý thức con người, và sau đó dùng những dấu hiệu này để “chứng minh” rằng con người thì thực sự có ý thức. Nhưng nếu một trí tuệ nhân tạo tự tường trình rằng nó có ý thức, chúng ta có chỉ nên tin nó không?

Cho đến nay, chúng ta không có trả lời chấp nhận được cho vấn đề này. Đã hàng nghìn năm trước đây, những nhà triết học nhận ra rằng không có cách nào để chứng minh một cách thuyết phục cho kết luận rằng bất cứ một ai nào khác ngoài bản thân mình có một não thức. Thật vậy, ngay cả trong trường hợp của những người khác, chúng ta chỉ giả định rằng họ có ý thức – chúng ta không thể biết đó như một điều chắc chắn. Có lẽ tôi là sinh vật duy nhất trong toàn thể vũ trụ, là người cảm nhận được bất kỳ một gì, và tất cả những người và những động vật khác đều chỉ là những robot không có não thức? Có lẽ tôi đang mơ, và tất cả mỗi người tôi gặp chỉ là một nhân vật trong giấc mơ của tôi? Có lẽ tôi đang bị mắc kẹt bên trong một thế giới của những ấn tượng không thực [19], và tất cả nhưng sinh vật tôi nhìn thấy chỉ là những mô phỏng tương tự?

Theo tín điều khoa học hiện nay, tất cả mọi thứ tôi có kinh nghiệm là kết quả của hoạt động điện trong óc của tôi, và do đó về mặt lý thuyết, nó có thể có tính cách thực hiện được để mô phỏng tương tự tất cả một thế giới không thực mà tôi không thể nào phân biệt với thế giới “thực”. Một số nhà khoa học não [20] tin rằng trong tương lai không xa, chúng ta thực sự sẽ làm những điều loại giống như vậy. Vâng, có lẽ nó đã được thực hiện – với bạn? Đối với tất cả những bạn đã biết, năm nay có thể là năm 2216, và bạn là một thiếu niên ngấy chán, đắm mình trong một trò chơi “thế giới ấn tượng không thực” vốn mô phỏng thế giới thô sơ và thú vị của những năm đầu thế kỷ XXI. Một khi bạn đơn giản đã chấp nhận chỉ tính chất có thể xảy ra được của tấn tuồng này, toán học dẫn bạn đến một kết luận rất đáng sợ: vì chỉ có một thế giới thực, trong khi đó số lượng của những thế giới ấn tượng không thực có thể có được là vô hạn, xác suất xảy ra rằng bạn đang sống trong một thế giới thực duy nhất thì hầu như là con số không.

Không một nào trong số những đột phá khoa học của chúng ta đã tìm được cách để khắc phục ‘Vấn đề của những Não thức Khác’ nổi tiếng này. [21] Thí nghiệm tốt nhất mà những học giả cho đến nay đã đưa ra được gọi là Thử nghiệm Turing, nhưng nó chỉ kiểm tra về những qui ước xã hội. Theo Thử nghiệm Turing, để xác định một computer có một não thức hay không, bạn nên đồng thời ‘nói chuyện’ với cả hai, với một computer và với một người thực (sau một computer khác), nhưng bạn không được biết ‘máy’ nào là người và máy nào chỉ là máy. Bạn có thể hỏi bất kỳ câu hỏi nào bạn muốn, bạn có thể chơi trò chơi, tranh luận, và ngay cả tán tỉnh họ. Dành thời gian nhiều như nếu bạn muốn. Sau đó, bạn đi đến phải quyết định đoán xem một nào trong hai máy là computer, và một nào là con người. Nếu bạn không thể quyết định, hoặc nếu bạn đoán sai, computer đã thành công được thử thách Turing, và chúng ta nên đối xử với nó như thể nó thực sự có một não thức. Nhưng đó sẽ không thực sự là một chứng minh, dĩ nhiên. Công nhận những não thức khác là có, đó chỉ đơn thuần là một quy ước xã hội và pháp lý.

Thử nghiệm Turing [22] được Alan Turing, nhà toán học người England, phát minh vào năm 1950, ông là một trong những cha đẻ của thời đại computer. Turing cũng là một người đồng tính luyến ái trong một thời khi đồng tính luyến ái là không hợp pháp trong xã hội Kitô England. Năm 1952 ông bị kết tội chỉ vì có hành vi đồng tính luyến ái, và buộc phải chịu ‘chữa trị’ bằng hóa học để chuyển đổi hormone. Hai năm sau đó, ông đã tự tử. Thử nghiệm Turing chỉ đơn giản là một bản sao của một thử nghiệm nhàm chán vốn mỗi người đồng tính đã phải trải qua trong năm 1950 ở England: bạn có thể vượt qua thử thách này để cho thấy mình là một người ‘bình thường’ hay không? Turing đã biết từ kinh nghiệm cá nhân rằng bạn là người thực sự thế nào thì không thành vấn đề quan trọng – chỉ những gì người khác nghĩ về bạn mới là vấn đề quan trọng. Theo Turing, những computer trong tương lai sẽ giống như những người đồng tính luyến ái năm 1950. Sẽ không thành vấn đề cho dù những computer thực sự có ý thức hay không. Chỉ những gì mọi người sẽ nghĩ về nó mới thành vấn đề.

Những kiếp sống tuyệt vọng của những con Chuột thí nghiệm

Sau khi chúng ta đã làm quen với não thức – và với ít ỏi như thế nào chúng ta thực sự biết về nó – chúng ta có thể trở lại câu hỏi liệu những động vật khác có não thức không. Một số động vật như loài chó, chắc chắn qua được một phiên bản được sửa đổi của Thử nghiệm Turing. Khi con người cố gắng để xác định liệu một thực thể có ý thức hay không, những gì chúng ta thường tìm kiếm không phải là năng khiếu toán học hoặc trí nhớ tốt, nhưng đúng hơn là khả năng để tạo ra những quan hệ tình cảm với chúng ta. Đôi khi người ta phát triển những gắn bó sâu xa với những sự vật đến mức gần như tôn thờ chúng, loại như với vũ khí, xe ô tô và thậm chí cả những quần áo lót, nhưng những gắn bó này đều một chiều, và không bao giờ phát triển thành những quan hệ. Sự kiện rằng những con chó thì một phần nào có thể có những quan hệ tình cảm với con người đã thuyết phục hầu hết những người chủ con chó rằng chúng không phải là những máy móc tự động, không có não thức..

Điều này, tuy nhiên, sẽ không làm những người hoài nghi thỏa mãn, những người chỉ ra rằng những cảm xúc là những algorithm, và rằng không có algorithm nào được biết đến đòi hỏi phải có ý thức để hoạt động. Bất cứ khi nào một con vật phô bày ứng xử tình cảm phức tạp, chúng ta không thể chứng minh rằng đây không phải là kết quả của một số những algorithm nào đó rất phức tạp nhưng không có ý thức. Lập luận này, dĩ nhiên, cũng có thể áp dụng được với con người. Tất cả những gì một người nào đó làm – gồm tường trình về những trạng thái cho là có ý thức – về lý thuyết, chúng có thể là việc làm của những algorithm không ý thức.

Trong trường hợp của con người, tuy nhiên, chúng ta giả định rằng bất cứ khi nào một ai đó tường trình rằng người đó thì có ý thức, chúng ta có thể tin vào lời của họ về điều đó. Dựa trên giả định tối thiểu này, ngày nay chúng ta có thể xác định những dấu hiệu của óc để nhận diện trạng thái có ý thức, mà sau đó có thể được dùng một cách có hệ thống để phân biệt những trạng thái ý thức và không ý thức ở con người. Tuy nhiên, vì óc của những động vật cũng chia sẻ nhiều những tính năng với óc của con người, khi sự hiểu biết của chúng ta sâu sắc hơn về những dấu hiệu của óc để nhận diện trạng thái ý thức, chúng ta có thể có khả năng dùng chúng để xác định xem nếu và khi nào những động vật khác có ý thức. Nếu một bộ óc chó cho thấy những mô thức tương tự như của một bộ óc con người có ý thức, điều này sẽ cho bằng chứng mạnh mẽ rằng loài chó có ý thức.

Những thí nghiệm khởi đầu trên những con khỉ và chuột cho thấy ít nhất những óc của khỉ và chuột thực sự cho thấy những dấu hiệu của óc để nhận diện trạng thái có ý thức. [23] Tuy nhiên, do sự khác biệt giữa bộ óc của động vật và bộ óc con người, và cho rằng chúng ta vẫn còn xa mới mở ra được hết tất cả những bí mật của ý thức, phát triển những thí nghiệm có tính chất quyết định để làm hài lòng những người hoài nghi có thể mất hàng mười năm. Ai nên thực hiện gánh nặng của chứng minh trong thời gian đó? Chúng ta có coi những con chó là những bộ máy không não thức, cho đến khi được chứng minh ngược lại, hay chúng ta đối xử với những con chó như những sinh vật có ý thức, miễn là không ai nêu lên một số bằng chứng có thể thuyết phục ngược lại?

Ngày 07 tháng 7 năm 2012, những nhà chuyên môn hàng đầu trong những ngành sinh học nơrôn và khoa học não thức đã tụ tập tại Đại học Cambridge, và đã ký bản Tuyên bố Cambridge về Hữu thức, nó nói rằng những bằng chứng đã qui tụ để chỉ định rằng những động vật không phải con người đều có cấu trúc giãi phẫu nơrôn, hóa học nơrôn và sinh lý nơrôn của những trạng thái có ý thức, cùng với khả năng để trưng bày những hành vi có chủ ý. Hệ quả là, sức nặng của bằng chứng cho thấy con người không phải là duy nhất sở hữu những lớp nền nơrôn [24] tạo ra ý thức. Những động vật không phải con người, bao gồm tất cả những loài động vật có vú, chim và nhiều loài sinh vật khác, bao gồm cả bạch tuộc, cũng có những lớp nền nơrôn này.[25] Tuyên ngôn này đã dừng lại nửa chừng, không nói trọn rằng những loài vật khác cũng có ý thức, vì chúng ta vẫn còn thiếu bằng chứng kết luận không thể chối cãi. Nhưng nó đã chuyển gánh nặng chứng minh điều đó cho những ai là người suy nghĩ khác với như thế.

Đáp ứng với những luồng gió đổi chiều của cộng đồng khoa học, tháng 5 năm 2015 New Zealand trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới công nhận về mặt pháp lý những động vật như những sinh vật có tri giác, khi quốc hội New Zealand đã thông qua Luật Sửa đổi cho tốt hơn Phúc lợi Động vật. Đạo luật quy định rằng bây giờ là bắt buộc để nhìn nhận những thú vật có tri giác, và như thế chăm sóc đúng mức vào phúc lợi của chúng trong bối cảnh như chăn nuôi. Ở một đất nước với số cừu nhiều hơn số với con người (30 triệu vs 4,5 triệu), đó là một tuyên bố rất quan trọng. Tỉnh Quebec của Canada từ đó cũng đã thông qua một đạo luật tương tự, và những nước khác có nhiều xác xuât sẽ làm theo.

Nhiều công ty thương mại cũng nhìn nhận những động vật như những sinh vật có tri giác, mặc dù thật ngược đời, điều này thường đẩy nhiều loài động vật vào những thử thí nghiệm khảo cứu khó chịu. Lấy thí dụ, những công ty bào chế thuốc thường xuyên dùng những con chuột như đối tượng thí nghiệm trong việc phát triển những thuốc chống bệnh trầm cảm. Theo một phương thức được dùng rộng rãi, bạn lấy 100 con chuột (để mức độ thống kê được tin cậy) và đặt mỗi con chuột bên trong một ống thủy tinh đầy nước. Những con chuột gắng gỏi lần trước, rồi lần sau, và lần nữa,… để cố leo ra khỏi ống, nhưng không thành công. Sau mười lăm phút, hầu hết chúng đều ngừng chuyển động. Chúng bập bềnh trong ống nước, thờ ơ với môi trường quanh chúng. 

Bây giờ bạn lấy 100 con chuột khác, ném chúng vào, nhưng vớt chúng ra khỏi ống 14 phút sau, ngay trước khi chúng sắp tuyệt vọng. Bạn để cho chúng khô ráo, cho chúng ăn, cho chúng nghỉ một chút -. Và sau đó ném chúng vào lại ống nước. Lần thứ hai này, hầu hết những con chuột gắng gỏi trong 20 phút, trước khi chúng buông xuôi. Tại sao thêm 6 phút? Vì trí nhớ về hoạt động chưa thất bại trong quá khứ đã bật lên để phóng thích trong óc một vài chất sinh hóa nào đó cho những con chuột hy vọng, và trì hoãn sự ra đời của tuyệt vọng. Nếu như chúng ta có thể cô lập chỉ riêng chất sinh hóa này, chúng ta có thể dùng nó như một thuốc chống bệnh trầm cảm cho con người. Nhưng có vô số những hóa chất tràn ngập não của một con chuột ở bất kỳ một thời điểm chỉ định nào trong thí nghiệm đó. Làm thế nào chúng ta có thể xác định đúng chỉ một chất?

Với câu hỏi này, bạn lấy nhiều nhóm chuột hơn, những con chuột chưa bao giờ tham dự thí nghiệm nào trước đó. Bạn tiêm cho mỗi nhóm một hóa chất đặc biệt, mà bạn ngờ là thuốc chống trầm cảm đang hy vọng tìm thấy. Bạn ném chuột xuống nước. Nếu những con chuột được tiêm hóa chất A, chỉ tranh đấu trong mười lăm phút trước khi trở thành chán nản, bạn có thể xóa tên hóa chất A khỏi danh sách của bạn. Nếu những con chuột được tiêm hoá chất B vùng vẫy khoảng 20 phút, bạn có thể nói với người CEO và những người có cổ phần công ty rằng bạn có thể đã vừa trúng số độc đắc.



Bên trái: Một con chuột hy vọng đang tranh đấu để thoát khỏi ống nước. Bên phải: Một con chuột nổi thờ ơ trong ống nước, mất hết mọi hy vọng.



Những người hoài nghi có thể phản đối rằng tất cả mô tả này đã ‘nhân hóa’ những con chuột một cách không cần thiết. Những con chuột không kinh nhiệm hy vọng cũng không tuyệt vọng. Đôi khi những con chuột di chuyển một cách nhanh chóng và đôi khi chúng đứng yên, nhưng chúng không bao giờ cảm thấy bất cứ điều gì. Chúng chỉ được những algorithm không có ý thức điều khiển. Tuy nhiên, nếu như vậy, tất cả những thí nghiệm này nhằm đến điều gì quan trọng? Những thuốc điều trị những bệnh tâm thần là nhằm mục đích để tạo ra thay đổi không chỉ trong hành vi của con người, nhưng trên hết là những tình cảm của con người. Khi những người bệnh đi đến một y sĩ tâm thần và nói, “Bác sĩ, cho tôi một gì đó mà sẽ nhấc tôi khỏi trầm cảm này,” họ không muốn một kích thích về cơ học sẽ làm họ vật vã quay cuồng, trong khi vẫn cảm thấy buồn bã. Họ muốn cảm thấy vui vẻ. Tiến hành những thí nghiệm trên những con chuột có thể giúp những công ty phát triển một thuốc uống kỳ diệu loại như vậy, nếu và chỉ khi họ giả định trước rằng hành vi của chuột được đi kèm với những tình cảm giống-người. Và quả thực, đây là một giả định trước vốn phổ biến trong những phòng thí nghiệm nghiên cứu bệnh tâm thần.[26]

Những con Chimpnazee có ý thức về mình

Đưa lên cao trên ngôi thờ phụng sự ưu thắng con người, một nỗ lực khác chấp nhận rằng những con chuột, chó và những động vật khác có ý thức, nhưng cho rằng, không giống như con người, chúng thiếu sự tự ý thức. Chúng có thể cảm thấy chán nản, hạnh phúc, đói, hoặc mãn nguyện, nhưng chúng không có khái niệm về tự thân, và chúng không ý thức được rằng trầm cảm hoặc đói chúng cảm thấy thuộc về một thực thể duy nhất gọi là “Ta”.

Ý tưởng này thì cũng phổ thông như nó thì cũng mờ đục, không sáng tỏ. Rõ ràng, khi một con chó cảm thấy đói, nó ngoạm một miếng thịt cho chính nó, chứ không cho con chó khác. Hãy để một con chó đánh hơi một gốc cây có một con chó hàng xóm đã tiểu vào, ngay lập tức con chó sẽ biết có phải nó ngửi nước tiểu của chính nó, hay của con chó giống Labrador hàng xóm dễ thương, hay của một người nào đó khác. Loài chó phản ứng rất khác nhau với mùi của riêng chúng, của những con chó có thể là bạn tình và những đối thủ tương lai. [27] Như vậy, có phải điều đó có nghĩa là chúng thiếu sự tự ý thức?

Một giải thích tinh vi hơn của luận chứng nói rằng tự ý thức có những mức độ khác biệt. Chỉ con người mới hiểu mình như một bản ngã lâu dài còn mãi, có một quá khứ và một tương lai, có lẽ chỉ con người có thể dùng ngôn ngữ để suy ngẫm những kinh nghiệm quá khứ và hành động tương lai của họ. Những động vật khác tồn tại trong một hiện tại vĩnh cửu. Ngay cả khi chúng dường như nhớ lại quá khứ, hoặc dự định tương lai, trong thực tế, chúng chỉ đang phản ứng với những kích thích và những thôi thúc hiện tại. [28] Lấy thí dụ, một con sóc đang giấu hạt, để dành cho mùa đông, nó không thực sự nhớ cái đói đã cảm thấy trong mùa đông năm ngoái, nó cũng không nghĩ gì về tương lai. Nó chỉ tuân theo một thôi thúc nhất thời, không biết gì về nguồn gốc và mục đích của sự thôi thúc này. Đó là tại sao, ngay cả những con sóc non, những con chưa từng sống qua một mùa đông, và do đó không thể ‘nhớ’ mùa đông, dẫu vậy vẫn giấu những hạt trong mùa hè.

Tuy nhiên, tại sao ngôn ngữ sẽ là một điều kiện cần thiết cho có được nhận thức về những biến cố của quá khứ hay tương lai là điều không rõ ràng. Sự kiện rằng con người dùng ngôn ngữ để làm như vậy thì khó là một bằng chứng. Con người cũng dùng ngôn ngữ để bày tỏ yêu thương hay sợ hãi của họ, nhưng những động vật khác cũng rất có thể có kinh nghiệm và ngay cả cũng bày tỏ yêu thương hay sợ hãi qua không-lời nói. Thật vậy, con người chính họ thường ý thức về những sự kiện trong quá khứ và tương lai mà không nói chúng ra bằng lời. Đặc biệt trong những trạng thái mơ, chúng ta có thể nhận thức được toàn bộ ‘thuật kể’ nhưng tất cả im lặng không lời – vốn khi tỉnh dậy chúng ta xoay sở có khi đến khổ sở để tìm lời mô tả.

Những thí nghiệm nhiều loại khác biệt cho thấy ít nhất một số động vật – bao gồm cả những loài chim như vẹt và giẻ cùi hay quẹt mỏ [29] – có nhớ lại nhưng biến cố cá nhân và có ý thức trù tính cho những sự việc có thể xảy ra trong tương lai. [30] Tuy nhiên, chứng minh điều này khỏi mức nghi ngờ là điều không thể nào được, vì bất kể dù phức tạp đến thế nào nếu động vật trưng bày một hành vi, những người hoài nghi luôn có thể cho rằng nó là kết quả của những algorithm vô thức trong óc của nó, chứ không phải là từ những hình ảnh hữu thức trong não thức của nó.

Để minh họa cho vấn đề này xem xét trường hợp của Santino, một chimpanzee đực của vườn thú Furuvik ở Sweden. Để xả bớt sự nhàm chán trong chuông nhốt của nó, Santino đã phát triển một thú chơi hào hứng: ném đá vào những khách đến thăm vườn thú. Trong tự nó, việc làm thì không có gì là độc đáo. Những chimpanzee tức giân thường ném đá, que gậy và thậm chí cả phân. Tuy nhiên, Santino đã trù tính những chuyển động của nó từ trước. Trong buổi sáng sớm, rất lâu trước khi vườn thú mở cửa cho khách vào thăm, Santino đã nhặt nhạnh những thứ để ném, và đã đặt chúng thành một đống, mà không trưng bày bất kỳ dấu hiệu nào của tức giận. Những người hướng dẫn và những người khách sớm học biết để dè chừng Santino, đặc biệt là khi nó đã đang đứng sẵn cạnh những cục đá xếp thành đống của nó, do đó nó đã làm tăng thêm khó khăn trong việc tìm kiếm những mục tiêu.

Tháng 5 năm 2010, Santino đã đáp ứng với một chiến lược mới. Trong sáng sớm, nó đã lấy những kiện rơm từ góc chuồng khu nó ngủ và đặt chúng gần với bức tường của chuồng nhốt, chỗ khách thường tụ tập đứng xem những con chimpanzee. Sau đó nó nhặt những cục đá và đem giấu chúng dưới đống rơm. Khoảng một giờ hay hơn sau đó, khi những khách đầu tiên đến gần, Santino giữ vẻ lạnh lẽo của mình, cho thấy không có những dấu hiệu của bực dọc hoặc hung hãn. Chỉ khi những nạn nhân của nó đã đều nằm trong tầm ném, Santino thình lình lấy những cục đá từ chỗ giấu chúng, và ném tung vào những con người hoảng sợ, những người sẽ hối hả chạy tung tán khắp mọi hướng. Trong mùa hè năm 2012 Santino đã tăng tốc độ chạy đua vũ trang, giấu đá không chỉ dưới những đống rơm, mà còn trong những bọng cây, những khu nhà xây, và bất kỳ những nơi nào thích hợp để giấu khác.

Tuy nhiên, ngay cả trường hợp Santino vẫn không thỏa mãn những người hoài nghi. Làm thế nào chúng ta có thể chắc chắn rằng buổi sáng, lúc 7 giờ, khi Santino đang bận rộn giấu đá chỗ này chỗ kia, nó cũng đang tưởng tượng sẽ vui như thế nào lúc ném xước da những người đến thăm vào buổi trưa? Có lẽ một vài algorithm đã thúc đẩy Santino, giống như một con sóc non giấu hạt ‘cho mùa đông’ mặc dù nó chưa bao giờ trải qua mùa đông? [31]

Tương tự như vậy, những người hoài nghi nói, một con chimpanzee đực tấn công một đối thủ, vốn làm nó bị thương tuần trước, thì không thực sự là sự trả thù xúc phạm cũ. Nó chỉ phản ứng với một cảm giác nhất thời của tức giận, nguyên nhân của cảm giác đó thì ở ngoài nó. Khi một con voi mẹ nhìn thấy một con sư tử đe dọa con voi con của mình, nó lao về phía trước và sẵn sàng liều mạng của nó, không phải vì nó nhớ rằng đây là con voi con thương yêu hàng mấy tháng mình đã nuôi dưỡng; đúng hơn, voi mẹ được thúc đẩy bởi một số cảm xúc thù địch kỳ lạ, không thể nào hiểu nổi, đối với sư tử. Và khi một con chó nhảy cẫng vui sướng khi chủ của nó về đến nhà, con chó không nhận thức đươc rằng người này đã cho ăn và ôm ấp mình từ thơ ấu. Nó chỉ đơn giản là bị choáng ngợp bởi một ngây ngất không thể giải thích.[32]

Chúng ta không thể chứng minh hay bác bỏ một bất kỳ nào của những tuyên bố này, vì chúng thực sự là những biến thể của Vấn đề của những Não thức Khác. Vì chúng ta không quen thuộc với bất kỳ algorithm nào đòi hỏi hữu thức, bất cứ gì một con vật nào làm đều có thể được xem như sản phẩm của những algorithm không có ý thức, hơn là của những kỷ niệm và trù tính có ý thức. Thế nên, trong trường hợp của Santino cũng vậy, câu hỏi thực sự liên quan đến gánh nặng phải chứng minh. Đâu là giải thích có nhiều phần có thể xảy ra nhất với hành vi Santino? Chúng ta có nên giả định rằng nó thì có ý thức lập kế trù tính cho tương lai, và bất cứ ai nếu không đồng ý nên cung cấp một số chứng minh ngược lại? Hoặc là nó thuận lý hơn để nghĩ rằng con chimpanzee này được một algorithm không có ý thức điều khiển, và tất cả những gì nó cảm nhận là một sự thôi thúc bí ẩn đòi đặt những cục đá dưới những kiện rơm?

Và ngay cả nếu Santino không nhớ quá khứ và không tưởng tượng được tương lai, có phải có nghĩa là nó thiếu tự ý thức? Dầu sao chăng nữa, chúng ta gán ý thức tự giác cho con người ngay cả khi họ không bận rộn ghi nhớ quá khứ hay mơ về tương lai. Lấy thí dụ, khi một bà mẹ nhìn thấy đứa con nhỏ chập chững lạc bước xuống một con đường đang đầy xe qua lại, bà không đứng lại để suy nghĩ về quá khứ hay tương lai nào cả. Cũng giống như con voi mẹ, bà cũng chỉ chạy vọt tới để cứu đứa con của mình. Tại sao không nói về người mẹ ấy những gì chúng ta nói về con voi mẹ, như cụ thể là “khi người mẹ vội vã để cứu đứa bé của mình khỏi hiểm nguy đang đi tới, người mẹ ấy đã làm điều đó không có ý thức tự giác. Bà chỉ đơn thuần do một thúc đẩy nhất thời đẩy tới? ” 

Tương tự như vậy, hãy xem xét một cặp tình nhân trẻ hôn nhau đắm đuối trong lần họ hẹn gặp đầu tiên, một người lính lao vào hỏa lực nặng nề của địch, để cứu một đồng chí bị thương, hay một nghệ sĩ vẽ một kiệt tác trong một ‘cơn điên mê loạn’ của cây cọ màu. Không ai trong số họ dừng lại để chiêm ngưỡng quá khứ hay tương lai. Liệu đó có nghĩa là họ thiếu tự ý thức, và rằng tình trạng của họ về hiện sống tỉnh thức thì thấp kém hơn so với một nhà chính trị đang đưa ra một phát biểu khi tranh cử, huyên thuyên về những thành tựu quá khứ và kế hoạch tương lai của mình?

Con ngựa tinh khôn

Trong năm 2010, những nhà khoa học đã tiến hành một thí nghiệm khác thường nhưng cảm động về chuột. Họ nhốt một con chuột trong một cái lồng nhỏ, đặt lồng bên trong một khoang lớn hơn nhiều, và để cho một con chuột khác tự do đi lại trong khoang đó. Con chuột trong lồng đã phơi bày những dấu hiệu của lo lắng và căng thẳng, khiến con chuột tự do cũng phơi bày những dấu hiệu của lo lắng và căng thẳng. Trong hầu hết những trường hợp, con chuột tự do đi đến giúp con đồng loại bị nhốt, và sau nhiều gắng thử, thường thành công trong việc mở lồng và giải thoát con chuột bị tù. Những nhà nghiên cứu sau đó đã lập lại thí nghiệm, lần này đặt thêm sôcôla trong khoang. Con chuột tự do bây giờ đã phải lựa chọn giữa một trong hai, giải thoát người tù, hoặc ăn sôcôla một mình. Nhiều con chuột thích làm việc giải thoát đồng loại trước đã, và sau đó chia miếng ăn chocolate (mặc dù cũng có một số ít những con cư xử ích kỷ hơn, cho thấy có lẽ rằng có một số con chuột thì ác hơn những con khác).

Những người hoài nghi đã bác bỏ những kết quả này, biện luận rằng con chuột tự do đã giải thoát con bị tù không phải từ sự đồng cảm, nhưng chỉ đơn giản là để ngăn chặn những dấu hiệu đau khổ gây khó chịu. Những con chuột có động lực từ những cảm giác khó chịu chúng đã cảm nhận, và chúng đã tìm cách không gì to lớn hơn là chấm dứt những cảm giác này. Có lẽ. Nhưng chúng ta cũng có thể nói cùng một điều đúng y như thế về con người chúng ta. Khi tôi cho tiền cho một người ăn xin, không phải là tôi đang phản ứng với những xúc động khó chịu vốn hình ảnh người ăn xin đã gây thành tình cảm trong tôi? Có phải tôi thực sự quan tâm đến người ăn xin không, hay tôi đơn giản là chỉ muốn cảm thấy tốt hơn về chính mình?[33]

Về bản chất, con người chúng ta không có gì khác so với những con chuột, chó, cá heo hay chimpanzee. Giống như chúng, chúng ta cũng không có linh hồn. Giống chúng ta, chúng cũng có ý thức và một thế giới phức tạp của những cảm giác và những cảm xúc. Dĩ nhiên, mỗi động vật có những nét độc đáo và tài năng của riêng nó. Con người cũng thế, cũng có những tài năng đặc biệt của mình. Chúng ta không nên ‘nhân hóa’ không cần thiết những động vật, tưởng tượng rằng chúng chỉ là một phiên bản có lông thú của chính chúng ta. Đây không chỉ là khoa học tồi, nhưng nó cũng ngăn cản chúng ta với sự hiểu biết và đánh giá những loài động vật khác bằng những điều kiện của chúng.

Trong đầu những năm 1900, một con ngựa có tên ‘Hans Tinh khôn’ đã trở thành một tên tuổi ở Germany. Dắt đi trình diễn qua những thị trấn và làng quê của Germany, Hans đã phô trương một hiểu biết tiếng Germany đáng chú ý, và một giỏi giang về toán học lại còn đáng chú ý hơn. Khi được hỏi, “Hans, bốn lần ba là mấy?” Hans đập nhẹ móng chân của nó mười hai lần. Khi được cho nhìn thấy một thông báo bằng chữ viết, ‘hai mươi trừ mười một là gì?’ Hans đập móng chín lần, với sự chính xác đáng ca ngợi của người Prussia.

Năm 1904, hội đồng quản trị giáo dục Germany đã bổ nhiệm một ủy ban khoa học đặc biệt, do một nhà tâm lý học đứng đầu, để tìm hiểu vấn đề. Mười ba thành viên của ủy ban – trong đó gồm một giám đốc rạp xiếc và một y sĩ thú y – đã tin rằng đây phải là một chuyện lừa đảo, nhưng mặc dù với những cố gắng nhất của họ, họ không thể khám phá được bất kỳ gian lận hay dấu diếm về vấn đề nào. Ngay cả khi Hans đã được tách ra khỏi người chủ của nó, và những người hoàn toàn xa lạ đặt câu hỏi, Hans vẫn trả lời đúng hầu hết những câu hỏi.

Năm 1907, nhà tâm lý học Oskar Pfungst đã bắt đầu một cuộc điều tra khác, cuối cùng đã phơi mở sự thật. Hóa ra là Hans có được trả lời đúng bằng cách cẩn thận quan sát ngôn ngữ cơ thể và nét mặt của người đối thoại với nó. Khi Hans được hỏi bốn lần ba là gì, từ kinh nghiệm quá khứ nó đã biết rằng con người đã chờ đợi nó gõ móng chân một số lần nhất định nào đó. Nó bắt đầu gõ móng chân, trong khi theo dõi con người chặt chẽ. Khi Hans gõ chân gần con số chính xác, con người dần trở nên càng căng thẳng hơn, và khi Hans gõ đúng con số, sự căng thẳng lên tới đỉnh. Hans biết cách nhận ra điều này như thế nào, qua tư thế thân thể con người, và vẻ nhìn trên mặt người. Khi đó, nó ngừng gõ móng chân, và xem căng thẳng đã được thay thế như thế nào, bằng sự ngạc nhiên hay tiếng cười lớn hơn. Hans biết nó đã làm đúng.

Hans thường được đưa ra như một thí dụ về cách con người ‘nhân hóa’ sai lầm động vật, gán cho chúng những khả năng xa vời, vượt quá những gì chúng thực sự có được. Tuy nhiên, trên thực tế, bài học thì đúng là sự ngược lại. Truyện kể  chứng minh rằng bằng cách ‘nhân hóa’ động vật, chúng ta thường ước lượng khả năng nhận thức của động vật thấp hơn, và không biết đến những khả năng độc đáo của những sinh vật khác. Về phương diện toán học, Hans thì khó lòng để gọi là thần tình. Bất kỳ một đứa trẻ tám tuổi nào cũng có thể làm giỏi hơn nhiều. Tuy nhiên, trong khả năng của nó để suy ra những cảm xúc và ý định từ ngôn ngữ cơ thể, Hans là một thần tình thực sự. Nếu một người Tàu đã hỏi tôi bốn lần ba là mấy bằng tiếng Quan thoại, không có cách nào tôi có thể đập chân tôi đúng mười hai lần, nếu chỉ đơn giản bằng cách quan sát những nét mặt và ngôn ngữ cơ thể. Hans tinh khôn đã có khả năng này vì loài ngựa bình thường truyền thông với nhau qua ngôn ngữ cơ thể. Tuy nhiên, điều đáng chú ý về Hans, là nó có thể dùng phương pháp này để đoán ra những cảm xúc và ý định không chỉ của những con ngựa đồng loại, nhưng cũng của những con người không quen biết. 

 
Con ngựa tinh khôn Hans trình diễn vào năm 1904.


Nếu những động vật rất thông minh, tại sao những con ngựa không đóng cương con người vào những xe kéo, những con chuột không dùng chúng ta để tiến hành những thí nghiệm, và những chú cá heo không buộc chúng phải nhảy xuyên qua những vòng tròn? Homo sapiens chắc chắn có một số khả năng độc đáo khiến nó có thể thống trị tất cả những loài động vật khác. Sau khi bác bỏ những quan niệm thổi phồng rằng Homo sapiens tồn tại trên một bình diện hoàn toàn khác với những động vật khác, hoặc cho rằng con người có một số bản chất độc đáo như linh hồn hay ý thức, chúng ta có thể cuối cùng đã leo xuống đến mức độ của thực tại, và xem xét những khả năng thể chất hoặc tinh thần đặc biệt vốn đem cho loài người chúng ta góc cạnh sắc sảo của nó.

Hầu hết những nghiên cứu dẫn kể sự sản xuất công cụ và trí thông minh như đặc biệt quan trọng đối với sự đi lên của loài người. Mặc dù những loài động vật khác cũng sản xuất dụng cụ, có rất ít nghi ngờ rằng con người vượt xa chúng trong lĩnh vực đó. Nhưng sự việc thì ít rõ ràng hơn một chút nhìn về mặt trí thông minh. Cả một ngành công nghiệp hoàn toàn được dành vào việc xác định và đo lường trí thông minh nhưng còn là một con đường rất xa mới đi đến được một sự đồng thuận. May mắn, chúng ta không cần phải bước vào bãi mìn đó, vì bất kể một người định nghĩa trí thông minh dù như thế nào, điều là hoàn toàn rõ ràng rằng không phải trí thông minh, cũng không phải tạo những công cụ, tự chúng có thể giải thích cho sự chinh phục thế giới của Sapiens. Theo hầu hết những định nghĩa về trí thông minh, khoảng một triệu năm trước con người đã là động vật thông minh nhất, cũng như là những người chế tạo dụng cụ vô địch trên thế giới, nhưng họ vẫn là những sinh vật không đáng kể, không quan trọng, có ảnh hưởng rất ít đến hệ sinh thái xung quanh. Họ rõ ràng còn thiếu một số đặc điểm then chốt khác hơn là sự thông minh và chế tạo những công cụ.

Có lẽ loài người cuối cùng đã đi đến thống trị trái đất không phải vì một số thành phần khó nắm bắt then chốt thứ ba, nhưng chỉ đơn giản là do sự tiến hóa của trí tuệ thông minh cao hơn, và thậm chí cả khả năng chế tạo công cụ tốt hơn? Không có vẻ là điều như vậy, vì khi chúng ta xem xét những ghi chép lịch sử, chúng ta không thấy một tương quan trực tiếp giữa trí thông minh và khả năng chế tạo công cụ của con người cá nhân và sức mạnh của loài người chúng ta như một toàn thể. Hai mươi ngàn năm trước đây, những Sapiens trung bình có thể có trí thông minh cao hơn và kỹ năng chế tạo công cụ tốt hơn so với Sapiens trung bình của ngày hôm nay. Những trường học và những công ty tìm người làm ngày nay có thể thỉnh thoảng vẫn kiểm tra năng khiếu của chúng ta, nhưng dù chúng ta làm tệ đến đâu, bảo hiểm xã hội của nhà nước vẫn luôn luôn bảo đảm những nhu cầu cơ bản của chúng ta. Trong thời Đồ đá, chọn lọc tự nhiên thử nghiệm bạn mỗi ngày trong mọi khoảnh khắc, và nếu bạn đã ‘trượt thẳng cẳng’ bất kỳ nào trong số rất nhiều những thử nghiệm của nó, bạn chẳng tồn tại được lâu, sẽ ‘ăn đất’ sớm!. Tuy nhiên, bất chấp khả năng chế tạo công cụ siêu việt của tổ tiên thời đồ đá của chúng ta, và mặc dù não thức sắc sảo hơn và những giác quan bén nhạy hơn của họ, 20.000 năm trước loài người thì yếu đuối hơn nhiều so với hiện nay.

Trong suốt 20.000 năm đó, loài người chuyển từ săn voi mammoth với những cây giáo đầu gắn đá nhọn đến thám hiểm hệ mặt trời với những con tàu vũ trụ, không nhờ vào sự tiến hóa của bàn tay khéo léo hơn hoặc bộ óc lớn hơn (ngày nay bộ óc của chúng ta dường như thực sự là nhỏ hơn). [34] Thay vào đó, yếu tố quyết định chủ yếu trong sự chinh phục thế giới của chúng ta là khả năng để kết nối người này với nhiều những người khác của chúng ta.[35] Con người ngày nay hoàn toàn thống trị trái đất này không phải vì cá nhân con người thì thông minh hơn rất nhiều và ngón tay bàn chân thì nhanh nhẹn hơn cá nhân những con chimpanzee hoặc chó sói, nhưng vì Homo sapiens là loài duy nhất trên trái đất có khả năng hợp tác linh động với những số đông lớn. Thông minh và chế tạo công cụ đã cũng rõ ràng là rất quan trọng. Nhưng nếu con người đã không học được để hợp tác linh động với số đông lớn, bộ óc xảo quyệt và bàn tay khéo léo của chúng ta vẫn sẽ đang đập những viên đá lửa thay vì những atom của uranium.

Nếu sự hợp tác là chìa khóa, tại sao những loài kiến và ong không làm được bom hạt nhân trước chúng ta, mặc dù chúng đã biết hợp tác đông đảo, hàng triệu năm trước chúng ta? Vì sự hợp tác của chúng thiếu tính linh động, không mềm dẻo. Ong hợp tác trong những cách rất tinh vi, nhưng chúng không thể một sớm một chiều tái tạo-lại hệ thống xã hội của chúng. Nếu một tổ ong phải chạm mặt với một đe dọa mới, hoặc một cơ hội mới, những con ong không thể, lấy thí dụ, chém con ong chúa và lập một nền cộng hòa!

Những động vật loài có vú, có đời sống xã hội như những con voi và chimpanzee hợp tác linh động và mềm dẻo hơn nhiều so với những con ong, nhưng chúng làm như vậy chỉ với những số lượng nhỏ gồm bạn bè và những thành viên trong gia đình. Sự hợp tác của chúng dựa trên sự quen biết cá nhân. Nếu tôi là một chimpanzee và bạn là một chimpanzee, và tôi muốn hợp tác với bạn, tôi phải biết cá nhân bạn: bạn thuộc loại chimpanzee nào? Bạn có phải là một chimpanzee tử tế không? Hay bạn là một chimpanzee ác độc? Làm sao tôi có thể hợp tác với bạn nếu tôi không biết bạn? Theo như sự hiểu biết tốt nhất của chúng ta, chỉ loài Sapiens mới có thể hợp tác với vô số những người xa lạ trong những cách rất linh động. Khả năng cụ thể này – chứ không phải một linh hồn vĩnh cửu, hoặc một số loại độc đáo nào đó của ý thức – giải thích sự làm chủ của chúng ta trên hành tinh Trái đất.

Cách mạng muôn năm!

Lịch sử cung cấp nhiều bằng chứng cho sự quan trọng chủ yếu của sự hợp tác trên quy mô lớn rộng. Chiến thắng gần như lúc nào cũng đi đến với những ai là những người đã hợp tác giỏi hơn – không chỉ trong những tranh đấu giữa Homo sapiens và những động vật khác, mà cũng còn trong những xung đột giữa những nhóm người khác nhau. Thế nên Rome đã chinh phục Greece không phải vì những người Rome đã có bộ óc lớn hơn, hoặc kỹ thuật chế tạo công cụ tốt hơn, nhưng vì họ có khả năng để hợp tác hiệu quả hơn. Trong suốt lịch sử, những đội quân kỷ luật dễ dàng đánh đuổi những đội quân vô tổ chức, và những tầng lớp ưu tú xã hội biết hợp tác tổ chức đã thống trị những quần chúng vô trật tự. Năm 1914, lấy thí dụ, 3 triệu quý tộc, viên chức và thương nhân Russia, tất cả cai trị hơn 180 triệu nông dân và công nhân. Tầng lớp ưu tú xã hội Russia biết làm thế nào để hợp tác trong việc bảo vệ lợi ích chung của nó, trong khi 180 triệu dân thường đã không có khả năng để huy động hiệu quả. Thật vậy, nhiều những nỗ lực của tầng lớp thượng lưu đã tập trung vào việc bảo đảm rằng 180 triệu người ở những tầng lớp dưới sẽ không bao giờ học được cách hợp tác.

Để khởi dựng một cách mạng, con số đông thì không bao giờ đủ. Những cách mạng thường được thực hiện bởi những mạng lưới nhỏ gồm những tay khuấy động, chứ không phải bởi quần chúng. Nếu bạn muốn khởi động một cuộc cách mạng, đừng tự hỏi, “Có bao nhiêu người ủng hộ ý tưởng của tôi?” Thay vào đó, hãy tự hỏi, “Có bao nhiêu trong số những người ủng hộ tôi có khả năng hợp tác hiệu quả?” Cuộc cách mạng Russia cuối cùng đã nổ ra không phải khi có 180 triệu nông dân đứng lên chống lại Tsar của họ, nhưng khi một số ít những người cộng sản đã biết đặt mình ở đúng chỗ, và vào đúng thời điểm. Năm 1917, ở một thời điểm khi những tầng lớp thượng lưu và trung lưu Russia, với con số ít nhất khoảng 3 triệu người, đảng Cộng sản Russia đã chỉ có đúng 23.000 đảng viên.[36] Những người cộng sản dẫu vậy, đã chiếm trọn quyền kiểm soát toàn thể đế quốc Russia bao la, vì họ đã giỏi tự tổ chức. Khi uy quyền ở Russia đã vuột khỏi những bàn tay suy yếu của Tsar bất lực, và những bàn tay cũng rệu rã không kém của chính phủ lâm thời Kerensky, những người cộng sản đã sốt sắng nắm lấy nó, giữ chặt dây cương quyền lực như một con bulldog ngoạm một miếng xương với trọn hàm răng sắc nhọn của nó.

Những người cộng sản đã không buông bỏ nắm giữ của họ đến tận cuối những năm 1980. Tổ chức hiệu quả đã giữ họ trong quyền lực trong suốt tám chục năm dài, và cuối cùng họ đã xụp đổ do nguyên nhân của tổ chức không hiệu quả. Ngày 21 tháng 12 năm 1989, Nicolae Ceauşescu, nhà độc tài cộng sản của Romania, đã tổ chức một cuộc biểu tình ủng hộ của quần chúng ở trung tâm thủ đô Bucharest. Trong những tháng trước đó, Soviet Union đã rút đi sự hỗ trợ với những chính quyền cộng sản Đông Europe, bức tường Berlin đã sụp đổ, và làn sóng cách mạng đã quét qua Poland, East Germany, Hungary, Bulgaria và Czechoslovakia. Ceauşescu, người đã cai trị Romania từ năm 1965, tin rằng ông có thể đứng vững trước trận tsunami này, mặc dù những bạo động chống lại chế độ của ông đã nổ ra tại thành phố Timişoara của Romania, vào ngày 17 tháng Mười Hai. Như một trong những cách đối ứng của mình, Ceauşescu đã sắp xếp một cuộc biểu tình lớn tại Bucharest để chứng minh với những người Romania và tất cả thế giới còn lại rằng đa số dân chúng vẫn còn yêu thích ông – hoặc ít nhất là sợ ông. Guồng máy ọp ẹp của đảng cộng sản rạn nứt này đã huy động 80.000 người, làm đầy công trường ở trung tâm thành phố, và dân chúng khắp Romania được bảo ngưng tất cả những hoạt động của họ, và hãy bật  những radio và TV của họ lên.

Với tiếng hò reo của đám đông dường như nhiệt tình, Ceauşescu đứng trên ban công nhìn ra công trường, như ông đã từng làm hàng chục lần trong những mười năm trước. Hai bên là bà Elena, vợ ông, và những đảng viên hàng đầu và một đám những vệ sĩ, Ceauşescu đã bắt đầu đọc một trong những bài diễn văn với giọng điệu ngán ngẩm quen thuộc của ông. Trong tám phút, ông đã ca ngợi những vinh quang của chủ nghĩa xã hội Romania, trông ông rất hài lòng với chính mình khi đám đông vỗ tay một cách máy móc. Và sau đó một gì đó sai lạc, không đúng, đã xảy ra. Bạn có thể xem nó cho chính bạn trên YouTube. Chỉ cần tìm “bài diễn văn cuối cùng của Ceauşescu”, và xem lịch sử trong hành động.[37].

Đoạn clip trên YouTube cho thấy Ceauşescu, sau khi bắt đầu một câu nói dài khác, đang nói, “Tôi muốn cảm ơn những người khởi xướng và tổ chức biến cố trọng đại này ở Bucharest, xem đó như là một-” , và sau đó ông rơi vào im lặng, mắt mở rộng, và ông bất động như bị đóng băng trong sự không-thể-tin-nổi. Ông đã không bao giờ nói xong câu nói dở dang. Bạn có thể thấy trong nháy mắt đó, cả một thế giới sụp đổ như thế nào. Ai đó trong khán giả đã la ó phản đối. Đến nay, người ta vẫn bàn luận không biết ai là người đầu tiên dám lớn tiếng phản đối. Và sau đó một người khác la ó, và một người khác, và thêm những người khác, và trong vòng vài giây quần chúng bắt đầu huýt sáo, hét ầm, và la ó lớn tiếng “Ti-mi-soa-ra! Ti-mi-soa-ra!”


Thời điểm một thế giới sụp đổ: một Ceauşescu choáng váng không thể tin vào mắt và tai mình.
Phim lấy từ www.youtube.com/watch?v=wWIbCtz_Xwk©TVR.



Tất cả sự việc này đã xảy ra trực tiếp sống động trên tivi Romania, khi ba phần tư dân chúng đã ngồi dán mắt vào màn hình, tim họ đập dữ dội. Cơ quan công an khét tiếng – Securitate – ngay lập tức ra lệnh TV phải ngưng phát sóng, nhưng toán chuyên viên truyền hình không nghe lời. Người quay phim chĩa ống kính lên trời để những người xem không thể nhìn thấy sự hoảng loạn trong những nhà lãnh đạo đảng trên ban công, nhưng chuyên viên âm thanh tiếp tục thu âm, và những chuyên viên kỹ thuật tiếp tục truyền hình trực tiếp. Tất cả nước Romania nghe đám đông la ó phản đối, trong khi Ceauşescu hét lên, “Xin chào! Chào bạn! Xin chào!” Như thể vấn đề trục trặc là với chiếc micro. Bà Elena, vợ ông, bắt đầu mắng khán giả, “Hãy yên lặng! Hãy yên lặng”, cho đến khi Ceauşescu đã quay lại và hét vào mặt bà – vẫn còn đang trực tiếp truyền hình – “Bà hãy im đi!” 'Ceauşescu sau đó kêu gọi đám đông phấn khích ở công trường, khẩn nài họ, “Các đồng chí! Các đồng chí! Hãy yên lặng, các đồng chí!”

Nhưng ‘các đồng chí’ đã không muốn giữ yên lặng. Chính quyền cộng sản Romania đã sụp đổ khi 80.000 người ở công trường trung tâm Bucharest đã nhận ra rằng họ thì mạnh hơn ông già đội mũ lông trên ban công rất nhiều. Điều thực sự đáng kinh ngạc, tuy nhiên, không phải là thời điểm sụp đổ của hệ thống, nhưng sự kiện là nó đã tìm được cách để tồn tại trong hàng những mười năm. Tại sao những cách mạng thì rất hiếm như thế? Tại sao quần chúng đôi khi vỗ tay và cổ vũ hàng trăm năm liên tục, làm tất cả những gì con người đứng trên ban công cao ra lệnh cho họ, mặc dù về lý thuyết, họ có thể lao về phía trước bất cứ lúc nào và xé người ấy ra từng mảnh?

Ceauşescu và đồng đảng của ông đã thống trị 20 triệu Romania trong bốn mười năm vì họ đã giữ chắc chắn ba điều kiện quan trọng. Đầu tiên, họ đặt những viên chức cộng sản trung thành nắm quyền kiểm soát tất cả những mạng lưới hợp tác, như quân đội, công đoàn và thậm chí những hiệp hội thể thao. Thứ hai, họ ngăn cản sự tạo ra bất kỳ tổ chức đối địch nào – dù là chính trị, hay kinh tế, hay xã hội – mà có thể phục vụ như một cơ sở cho sự hợp tác chống lại đảng cộng sản. Thứ ba, họ đã dựa vào sự hỗ trợ của những đảng cộng sản anh em ở Soviet Union và Đông Europe. Mặc dù đôi khi có những căng thẳng, những đảng này giúp đỡ lẫn nhau trong những khi cần, hoặc ít nhất là bảo đảm rằng không có người ngoài nào chọc gậy phá thối vào thiên đường xã hội chủ nghĩa. Trong những điều kiện như vậy, bất chấp tất cả những khó khăn và đau khổ tầng lớp chọn lọc cầm quyền đã gây cho họ, 20 triệu người Romania đã không có khả năng để tổ chức được bất kỳ đối kháng hiệu quả nào.

Ceauşescu mất quyền lực chỉ khi tất cả ba điều kiện thôi không còn giữ vững. Vào cuối những năm 1980, Soviet Union đã rút đi sự bảo bọc của nó, và những chế độ cộng sản đã bắt đầu xụp đổ như những quân bài domino. Đến tháng 12 năm 1989, Ceauşescu không thể trông mong vào bất kỳ trợ giúp nào từ bên ngoài. Ngược lại – những cách mạng ở những nước lân cận đã làm nức lòng phe đối lập ở địa phương. Đảng Cộng sản tự nó đã bắt đầu phân thành những phe đối địch. Những đảng viên ôn hòa muốn gạt chính Ceauşescu qua bên, và khởi đầu cải cách trước khi quá muộn. Bằng sự tổ chức cuộc biểu tình ở Bucharest và phát hình trực tiếp trên tivi, chính Ceauşescu đã cung cấp cho những người làm cách mạng cơ hội hoàn hảo để khám phá sức mạnh của chính họ, và tập hợp họ chống lại ông. Còn cách nào nhanh hơn để làm một cuộc cách mạng lan tràn bằng cách chiếu hình nó, trực tiếp những gì đang diễn ra, từng giây từng phút sống động ,trên màn ảnh tivi cho cả nước xem?

Tuy nhiên, khi quyền lực vuột khỏi tay của người tổ chức vụng về trên ban công, nó đã không chuyển xuống đám quần chúng đứng dưới công trường. Mặc dù rất đông và nhiệt tình, đám đông đã không biết tự tổ chức như thế nào. Do đó, giống như Russia năm 1917, quyền lực được chuyển sang một nhóm nhỏ của những tay đánh bài chính trị, những người có vốn liếng duy nhất của họ là biết tổ chức giỏi. Cách mạng Romania đã bị những người tự xưng là Mặt trận Cứu quốc bắt cóc, vốn trong thực tế, là một che mắt dư luận cho cánh ôn hòa của Đảng Cộng sản. Mặt trận không có liên hệ thực sự nào với đám đông biểu tình. Nó được những đảng viên trung cấp điều khiển, và do Ion Iliescu, một cựu thành viên của ủy ban trung ương Đảng Cộng sản, và một thời đã đứng đầu ngành tuyên truyền. Iliescu và những đồng chí của ông trong Mặt trận Quốc gia Cứu quốc đã tự tái tạo chính họ như những nhà chính trị dân chủ, tuyên bố với bất kỳ microphone chờ sẵn nào rằng họ là những người lãnh đạo của cuộc cách mạng, và sau đó dùng kinh nghiệm lâu năm và mạng lưới những tay chân thân tín của họ để kiểm soát và dốc túi những tài nguyên của đất nước.

Trong nước Romania cộng sản, gần như tất cả mọi thứ đều thuộc sở hữu của nhà nước. Nước Romania dân chủ đã nhanh chóng tư hữu hóa những tài sản quốc gia, bán chúng với giá hời cho những cựu đảng viên cộng sản, những người một mình nắm vững được những gì đang xảy ra và đã cộng tác thêm vây cánh để xây tổ cho nhau. Những công ty nhà nước kiểm soát cơ sở hạ tầng quốc gia và những nguồn tài nguyên thiên nhiên toàn quốc đã được bán cho những chức sắc cộng sản trước đây với những giá giảm cuối mùa thật thấp, trong khi những đảng viên trơn, không từng giữ chức vụ quan trọng nào, đã mua nhà và chúng cư với những giá rẻ mạt.

Ion Iliescu đã được bầu làm tổng thống của Romania, trong khi những đồng chí của ông đã trở thành những bộ trưởng, nhân viên quốc hội, giám đốc ngân hàng và những triệu phú. Tầng lớp chọn lọc Romania mới điều khiển đất nước cho đến ngày nay chủ yếu gồm những đảng viên cộng sản cũ và gia đình của họ. Quần chúng đã dám liều ‘vươn cổ chịu chém’ ở Timişoara và Bucharest, đều đã nhận chỉ những miếng thừa, những của vứt đi, vì họ không biết cách để hợp tác và cách để tạo ra một tổ chức hiệu quả để chăm sóc những quyền lợi của chính họ.. [38]

Một số phận tương tự xảy ra với cuộc Cách mạng Egypt năm 2011. Nhũng gì tivi đã làm trong năm 1989, Facebook và Twitter đã làm trong năm 2011. Những phương tiện truyền thông mới đã giúp quần chúng phối hợp hoạt động của họ, vì vậy khiến hàng ngàn người đã tràn ngập đường phố, công trường đúng thời điểm và lật đổ chế độ Mubarak. Tuy nhiên, để mang 100.000 người đến Công trường Tahrir là một điều, và là một điều khác để nắm được guồng máy chính trị, và điều hành một quốc gia cho hiệu quả. Do đó, khi Mubarak từ chức, những người biểu tình không thể lấp nổi khoảng trống chính trị. Egypt chỉ có hai cơ cấu được tổ chức đầy đủ để cai trị đất nước: quân đội và tổ chức Huynh đệ Muslim [39]Do đó cách mạng đã bị Muslim Brotherhood bắt cóc trước tiên, và cuối cùng đến quân đội.

Những người cộng sản cũ Romania và những tướng lãnh Egypt không phải đã là thông minh hơn, hay nhanh nhẹn hơn nhà độc tài già,  hay những người biểu tình, ở Bucharest và Cairo. Lợi thế của họ nằm trong sự hợp tác linh động. Họ đã phối hợp tốt cộng tác khéo hơn so với những đám đông ô hợp, và họ đã cho thấy nhiều linh động sẵn sàng hơn so với Ceauşescu và Mubarak thủ cựu.

Vượt qua Sex và Bạo động

Nếu Sapiens thống trị thế giới vì chỉ mình chúng ta có thể hợp tác linh động trong số lượng lớn đông đảo, ....


Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Oct/2016)




[1] [Evolution, Creationism, Intelligent Design’, Gallup, accessed 20 December 2014,
http://www.gallup.com/poll/21814/evolution-creationism-intelligent-design.aspx; Frank Newport, ‘In US, 46 per cent Hold Creationist View of Human Origins’, Gallup, 1 June 2012, accessed 21 December 2014,
http://www.gallup.com/poll/155003/hold-creationist-view-human-origins.aspx.]
[2] “Survival of the fittest” : ‘sự sống còn của loài thích nghi nhất’ là câu của Herbert Spencer, trở thành câu nói phổ thông, về thuyết tiến hoá của Darwin, ‘thích nghi nhất (fittest)’ = “better designed for an immediate, local environment”
[3] individual: late Middle English (‘indivisible’ không phân chia được): < medieval Latin individualis, < Latin individuus, < in- ‘not’ + dividuus ‘divisible’ (
[4] personality: kết hợp của những đặc tính hoặc những tính chất tạo thành nét riêng biệt, gọi là cá tính, của một cá nhân.
[5] organelle
[6] Mind: tôi tạm dịch, ở đây và những chỗ khác, là não thức, và định nghĩa là ‘có lý trí, suy nghĩ, tình cảm, và trí nhớ, do có khả năng tự ý thức và kinh nghiệm về mình và thế giới quanh mình’ (tôi tự thêm vào, ở trên) để giải thích nghĩa thông thường, dùng được, của từ ‘mind’ này.
Trước đây, vẫn đã thường dịch “mind” là: ‘tâm”, hay “tâm thức”, cũng có khi là ‘tinh thần’ (như đối nghịch với thân xác) hay ‘trí tuệ’ (như đối nghịch với tình cảm). Những từ này đã vướng vào vấn đề ‘tâm/vật’ (hay dualism của Plato/Descartes) nay đã lỗi thời. (a) ‘tâm’ (心): người Tàu đã dịch từ ‘citta’ trong Sankrit, ‘tâm’ = quả tim, là một từ cụ thể (tiếng Tàu rất nghèo từ trừu tượng, nghèo hơn India rất nhiều), nên ‘tâm’ không thể chuyển hết được những nội dung phức tạp trừu tượng của “citta”. (b) Còn ‘thức’ (識): cũng dịch ‘vijñāna’ trong Sankrit, một khái niệm triết học đạo Phật khác, chỉ một yếu tố của Ngũ uẩn, và yếu tố thứ 3 của Mười hai Nhân duyên. – thông thường, ‘thức’ hiểu là sự nhận biết.. Ðó là hoạt động tâm lý khi giác quan (căn) tiếp xúc với đối tượng (trần), thức được sinh ra, ‘thức’ ở đây có thể thấy là cảm nhận của những giả hợp, nghĩa là hoàn toàn không có tính thường tại – chỉ với mức độ hiểu biết sơ đẳng thế đó đã cho thấy ‘thức’ với gốc Phật học của nó, không có nội dung tương đương với ‘mind’ của tâm lý học phương Tây. Như thế, tâm, thức, tâm thức, trong tiếng Việt, đã sẵn chứa nội dung tôn giáo, nhuốm tính siêu hình, và trong văn học, đã xử dụng với nội dung quá rộng rãi, quá loãng đến thành mơ hồ, bất định; (thí dụ ‘tâm’ trong câu thường nói ‘vạn sự tại tâm’! – trong Phật học, không bao giờ có ‘một’ là nguyên nhân của ‘vạn’ sự, vì như thế đã phản lại tinh thần của nguyên lý ‘vạn sự tương khởi’; tất cả đều nương nhau mà có, hay một thí dụ khác, ‘thức’ trong một mệnh đề quen thuộc khác ‘triết học của tỉnh thức’, thức ở đây không còn là nhận biết thông thường (như trong ‘khoa học thường thức’), nhưng gần như sự giác ngộ chân lý); Thế nên những gì ‘tâm’, ‘thức’ mang những nội dung như hiện đang dùng, hoàn toàn xa lạ với nội dung của ‘mind’ trong tâm lý học phương Tây. Vì ‘tâm’, ‘tâm thức’ khó dùng lại như một thuật ngữ triết học để dịch ‘mind’, nên dịch ‘mind’não thức, với định nghĩa (của ‘mind’) rõ ràng như trên, để ứng hợp như là đối tượng của triết học về não thức (philosophy of mind).
Trong thế kỷ XX, triết học não thức đã trở thành một trong những lĩnh vực trọng tâm của thế giới triết học Anh Mỹ, và vẫn còn tiếp tục như thế. Những câu hỏi như những quan hệ giữa trí tuệ và não, bản chất của hữu thức, và chúng ta nhận thức thế giới như thế nào, đã đi đến được xem là rất quan trọng trong việc tìm hiểu thế giới. Ngày nay, vị trí nổi bật trong triết học não thức nhằm thiết lập tương đương giữa những hiện tượng tâm lý với những hoạt động của bộ óc, và giải thích chúng tất cả trong những thuật ngữ khoa học. Đôi khi dự án này được gọi là “khoa học về nhận thức” (cognitive science), và nó mang giả định ngầm rằng nhận thức xảy ra trong những máy computer, cũng như trong bộ óc con người và động vật, và đều có thể được nghiên cứu như nhau trong mỗi một của ba thể dạng này.
Những gì khái niệm ‘não thức’ chứa đựng (tự biết nghĩ, nhớ và cảm,...), có thể không (hay chưa) tìm được hết trong những hoạt động của bộ óc (hay hệ thống thần kinh) của chúng ta, nhưng nếu không có bộ óc sinh hoá, chắc chắn chúng ta không thể có ‘mind’, nên tôi dịch ‘mind’ = ‘não thức’.
[7] CPU: Central Processing Unit: Đơn vị Tiến hành Trung tâm của computer: những mệnh lệnh được tiến hành ở bộ phận này, CPU gồm hai bộ phận nhỏ hơn: ALU (Đơn vị Toán Lôgích) và CU (Đơn vị Điều khiển).
[8] [Gregg, Are Dolphins Really Smart?, 82–3.]
[9] automata mindless (René Descartes (1596–1650): les animaux sont des machines. dénués de conscience ou de pensée – thú vật là những bộ máy, trống trơn không ý thức hay suy nghĩ)
[10] [Stanislas Dehaene, Consciousness and the Brain: Deciphering How the Brain Codes Our Thoughts (New York: Viking, 2014); Steven Pinker, How the Mind Works (New York: W. W. Norton, 1997)]
[11] [Dehaene, Consciousness and the Brain.]
[12] [Những người cho là lỗi lạc có thể nhắc đến ‘định lý bất toàn’ của Godel, theo đó không có hệ thống toán học (xây dựng trên những) định đề nào có thể chứng minh được tất cả những chân lý số học (chân lý của set N). Sẽ luôn luôn có một vài mệnh đề đúng, nhưng không thể chứng minh được từ bên trong hệ thống. Trong văn chương phổ thông, định lý này đôi khi bị ‘cướp làm con tin’ để giải thích cho sự hiện hữu của não thức. Phê bình rằng não thức thì cần thiết để giải quyết những chân lý không thể chứng minh được loại như vậy. Tuy nhiên, hoàn toàn không có gì rõ ràng (từ những phê bình đó) cho thấy tại sao những sinh vật cần phải liên luỵ, hay phải bám vào chân lý toán học phức tạp như vậy để tồn tại và sinh sản. Trong thực tại, phần lớn những quyết định hữu thức của chúng ta đều không liên quan gì với những vấn đề như vậy cả.]
Cũng nói thêm; ở đây tác giả nhắc tới những người viện dẫn định lý Goedel để nói rằng những con số thôi không đủ, không tạo thành một hệ thống đóng kín, vẫn cần một gì ngoài nó để cho thấy một vài chỗ đúng củac chính nó, và tác giả biện luận cho chúng ta rằng sự sống, những gì ông đang chú ý tới ở đây, không cần tới, vì không liên hệ gì với một hệ thống giải quyết một vấn đề toán học như vậy (toán lôgích, những bài toán của Hilbert). Nhưng lấy ‘định lý bất toàn’ bắt làm con tin để mong dùng nó đe doạ rằng con người thì bất toàn, nên một gì đó vượt con người (Gót) phải hiện hữu! như thế là bỏ khoa học tìm về tin tưởng tôn giáo.Trong toán học, định lý bất toàn, rất phức tạp, khó hiểu (‘any formal system that is interesting enough to formulate its own consistency can prove its own consistency iff it is inconsistent’) nhưng bản chất là một paradox, nói về một khiếm khuyết, giới hạn của con người, nhưng cũng vẫn do một con người, chính tác giả của nó, Godel đã đưa ra; và vẫn dùng khả năng trí tuệ của chính con người. Trước sau khoa học, cũng như toán học, không bao giờ nói rằng mình đã có và nắm được chân lý. Tất cả những hệ thống, khám phá khoa học đều giả định là ‘chưa đúng’, chưa là là chân lý, có thể sai, chờ và cho đến khi gặp sai, thất bại, không ứng dụng được; sẽ buông bỏ, và tìm một gì đó ‘đúng hơn’ để thay thế, để làm việc tiếp.
[13] [Christopher Steiner, Automate This: How Algorithms Came to Rule Our World (New York: Penguin, 2012), 215; Tom Vanderbilt, ‘Let the Robot Drive: The Autonomous Car of the Future is Here’, Wired, 20 January 2012, accessed 21 December 2014, http://www.wired.com/2012/01/ff_autonomouscars/all/; Chris Urmson, ‘The Self-Driving Car Logs More Miles on New Wheels’, Google Official Blog, 7 August 2012, accessed 23 December 2014, http://googleblog.blogspot.hu/2012/08/the-self-driving-car-logs-more-miles-on.html; Matt Richtel and Conor Dougherty, ‘Google’s Driverless Cars Run into Problem: Cars with Drivers’, New York Times, 1 September 2015, accessed 2 September 2015,
http://www.nytimes.com/2015/09/02/technology/personaltech/google-says-its-not-the-driverless-cars-fault-its-other-drivers.html?_r=1.]
[14] Chúng ta cũng tương tự, ‘thiên’ nhiên, trời mưa, trời đánh, ‘con tạo’,.... nhưng chỉ khác là đã từ lâu, chỉ hiểu chúng với nghĩa tượng trưng, những ẩn dụ. Và ‘trời’, ‘con tạo’ cũng không phải tất cả là những tên gọi của những gì chúng ta không thể hiểu, không thể giải thích; đó có lẽ chỉ là phần tốt đẹp tử tế, muốn có; nhưng còn những gì chúng ta không thể hiểu nhưng tàn ác, độc hại, hay hãm hại con người, những gì đưa lối, dẫn đường con người đến ‘bến mê’, vào ‘khổ đau đứt ruột’, là những sức mạnh cũng siêu nhiên, nhưng chúng ta không muốn có, không muốn gặp, là những ‘ma’, ‘quỉ’, ‘yêu tinh’. Như thế “Trời”, ‘ông trời’, ‘ma’, ‘tinh’, ‘quỉ’, đều là những ẩn dụ, để chỉ những quyền năng siêu nhiên, chỗ chúng ta chạm với những giới hạn của hiểu biết, nó là khoảng trống tri thức, tên gọi của tất cả những gì ‘không/chưa biết’, của thời trước khi có triết học và khoa học. Có lẽ tin tường thành hình đầu tiên trên mặt đất, tín ngưỡng mọi vật có hồn, gọi chúng là ‘mana’. Manaquyền năng siêu nhiên trong bóng tối, hiểu biết con người không soi chiếu tới được; Mana (thành ‘ma’ trong tiếng Việt) sản sinh tất cả những dạng thức của quyền năng vượt con người, tốt lẫn xấu (hình ảnh ma trong người Việt luôn luôn là một phụ nữ, i.e. có thể sinh sản; phải chăng nghĩ ‘mana’mẹ, sinh một bầy con. Những đứa tốt lành (trẻ tạo hoá, sau đó lớn lên đến già mới thành khôn - trời già có mắt), chúng nghe theo cầu nguyện, cúng bái, thờ phượng của con người, nên con người cho là tốt (dù chúng cũng có khi làm những điều hại người); và những đứa ác độc (tinh, ma, quỉ, quái), với những đứa con này, mọi chuyện cầu nguyện, cúng bái, thờ phượng, hối lộ đều không xong, (hay không phải ai cũng làm được, trừ những thày mo, thày pháp, phù thuỷ) nên con người cho là xấu, tránh xa. Sau cùng, người ta quên gốc mana?, Quên người mẹ, chỉ còn loay hoay với đám con, cả tốt lẫn xấu ‘trời, đất, quỉ, thần’ (hay gót, satăng, trong văn chương phương tây) mà thôi). Đều là những không-biết, không-hiểu, nhưng xấu, đổ cho ‘ma, quỉ, satăng’, còn tốt đẹp, cho là ‘trời, gót’.
[15] Hầu hết chúng ta có lẽ không cần phải suy nghĩ quá nhiều để phân biệt một sự vật “sống” với “không sống”. Một người thì sống; nhưng một tảng đá thì ‘không-sống’. Hiển nhiên và dễ dàng! Nhưng những nhà khoa học và triết học không nhìn những sự vật quanh chúng ta chắc chắn và hoàn toàn rõ ràng, như thế. Trong hàng nghìn năm, họ ngẫm nghĩ cân nhắc câu hỏi: Điều gì làm một sự vật nào đó là ‘sống’? Từ Aristotle đến Carl Sagan, những nhà tư tướng, khoa học lớn đều đã dành nhiều suy nghĩ cho câu hỏi đó - và họ vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa nào làm hài lòng tất cả mọi người. Nói trắng ra, chúng ta vẫn chưa định nghĩa được ‘sự sống’ là gì. (Mặc dù, đặc biệt những tôn giáo tin-chỉ-một gót,… đều quả quyết về ‘chết’)
Nếu có bất cứ vấn đề gì, vấn đề định nghĩa sự sống đã trở nên khó khăn hơn trong vòng 100 năm qua. Cho đến thế kỷ XIX, một ý tưởng phổ biến đã là sự sống thì đặc biệt nhờ vào sự hiện diện của một linh hồn vô hình, hoặc “tia lửa sống” (vital spark, tia lóe sáng quan trọng, cho sự sống). Ý tưởng này ngày nay không còn được giới khoa học dẫn nhắc tới nữa. Nó đã được thay thế bằng cách nhìn và giải thích khoa học hơn. NASA, thí dụ, đã mô tả sự sống như “một hệ thống hóa học tự duy trì, có khả năng của tiến hóa như giải thích của Darwin”.( a self-sustaining chemical system capable of Darwinian evolution).
Nhưng NASA chỉ là một trong nhiều nỗ lực để ghim chặt xuống tất cả sự sống với một mô tả đơn giản. Trong thực tế, hơn 100 định nghĩa của sự sống đã được đề nghị, với hầu hết tập trung vào một số ít những thuộc tính then chốt như tái sinh sản và chuyển hóa (replication and metabolism). Để làm cho vấn đề khó khăn hơn, nhiều loại khác nhau của các nhà khoa học có những ý tưởng khác nhau về những gì là thực sự cần thiết để xác định một gì đó là ‘còn sống’. Trong khi một nhà hóa học có thể chắt lọc sự sống xuống một số những phân tử nhất định nào đó, một nhà vật lý có thể muốn thảo luận về nhiệt động lực học (thermodynamics). (theo BBC).
[16] Gangrene
[17] a computer ‘bug’
[18] [Dehaene, Consciousness and the Brain.]
[19] Virtual reality: thế giới ấn tượng không thực, nhận biết qua những tác động gây hiệu quả là những ấn tượng, khác với thực tại chúng ta vẫn thường biết. Virtual reality đã dịch là ‘thế giới ảo’, nhưng thuật ngữ này sẽ kéo đến câu hỏi - thế nào là ‘ảo’, vốn là một câu hỏi hiện nay không có trả lời thống nhất.
Những gì thấy là-có hay là kết quả, nhưng trong bản chất, hay tác động thực sự không đến từ sự kiện, dạng thức hay tên gọi của thực tại (Existing or resulting in essence or effect though not in actual fact, form, or name). Trong computer, có thể tạ gọi là thế giới số, những gì tạo ra bằng phương tiện truyền thông số điện toán (digital media)
[20] Brain scientist: neuroscientist.
[21]Problem of Other MindsVấn đề của những Não thức Khác: là vấn đề đưa ra lý lẽ giải thích thế nào cho tin tưởng gần như phổ quát rằng những người khác có những não thức rất giống như của riêng chúng ta, vốn là tin tưởng giáo điều của những người hoài nghi cực đoan – chủ trương rằng mỗi người biết được chỉ não thức của chính mình, nhưng không ai khác (solipsism); Đã có rất nhiều giải pháp được đưa ra, nhưng không giải pháp nào có thể tự nhận là được đa số ủng hộ.
Đồng ý chung giữa những triết gia rằng Vấn đề về những Não thức khác thì quan tâm với vấn đề nền tảng của câu hỏi rằng những gì cho chúng ta quyền với tin tưởng của chúng ta rằng những người khác có những đời sống nội tâm, hơn là không biết chúng ta có khả năng hay không trong những trường hợp đặc biệt để chắc chắn về những gì đang xảy ra trong những đời sống nội tâm đó.
Tuy nhiên, có (ít nhất) hai vấn đề về những não thức khác. Một là vấn đề về phương diện nhận thức: liên quan đến câu hỏi những tin tưởng của chúng ta về những trạng thái não thức khác không phải của chúng ta thì được giải thích với lý lẽ nào. Còn vấn đề thứ hai là về phương diện khái niệm: Có thể có được như thế nào cho chúng ta để hình thành một khái niệm về về những trạng thái não thức khác hơn của chính chúng ta.
[22] Alan Mathison Turing (1912 - 1954): nhà toán học người England, ông có những đóng góp rất lớn lao, đặc biệt với lý thuyết khoa học computer, ngày nay ông được biết đến rộng rãi như cha đẻ của khoa học computer và trí tuệ nhân tạo.
Máy Turing: Trong năm 1930 Turing đề xuất khái niệm về, ông gọi, một Máy Turing Phổ quát (Universal Turing Machine). Trước hết, ông nêu rằng những phép tính toán cần thiết để tính toán bất kỳ một công thức nào đều có thể được chia (nhỏ và xuống mức thấp hơn) thành những set cơ bản gồm những mệnh đề chỉ dẫn (hay những hàm số toán học, có thể được “gọi”, hay “dùng” lại); và chúng, trên nguyên tắc, có thể được một máy tuân hành theo: “MáyTuring”. Một khi được hợp thức (theo qui cách ấn định) đầy đủ, những tính toán cần để diễn dịch chính những mệnh đề chỉ dẫn có khả năng được một Máy Turing “chạy” (thực hiện). Logích chạy vòng (lôgích kia là chạy thẳng) cho phép một máy Turing trong khái niệm có thể tạo ra những hướng dẫn của riêng nó, và trên nguyên tắc, có thể “chạy” một loạt lớn những tính toán khác loại.
Trí tuệ nhân tạo: Năm 1950 , trong bài viết Computing Machinery and Intelligence (Mind 49: 433-460), Turing đã đề xuất một thí nghiệm (dưới ảnh hưởng của thuyết Logical Positivism, do Nhóm Vienna phát triển, chủ trương rằng chỉ những vấn đề có thể giải quyết được bằng phân tích lôgích, mới là những những vấn đề triết lý đích thực, có ý nghĩa) cho việc xác định xem một máy tính có thể suy nghĩ được như người không (có trí tuệ nhân tạo). Xét nghiệm này, nay gọi là Thử nghiệm Turing, vẫn được xem là thử nghiệm tốt nhất để xác định một máy tính (computer) có cho thấy có trí tuệ thay thế hay tương đương với trí tuệ con người hay không.
Năm 1952, ông bị tòa án kết tội “không đứng đắn” (indecency) trước bằng chứng ông có liên hệ luyến ái với một thanh niên trẻ khác. Đồng tính luyến ái khi ấy vẫn là một tội phạm trong xã hội Kitô England. Hình phạt cho “tội” đồng tính luyến ái, ông phải chọn (thay vì đi tù) là phải chịu tiêm hormone (như điều trị) cho thành bất lực về tình dục. Nó cũng gây ra chứng vú căng lớn (gynecomastia). Hai năm sau, 1954, ông tự tử bằng ăn một quả táo có tẩm cyanua. Khi ấy, ông mới 41 tuổi. Lời ông:
“Chúng ta có thể hy vọng rằng sau cùng máy sẽ cạnh tranh với người trong tất cả những lĩnh vực thuần trí tuệ. Nhưng đâu là lĩnh vực hay nhất để bắt đầu? Ngay cả câu hỏi này cũng khó trả lời. Nhiều người nghĩ rằng một hoạt động rất trừu tượng, như chơi cờ chess, sẽ là hay nhất. Cũng có thể chủ trương rằng hay nhất là cung cấp cho máy những cơ quan của giác quan, dù tốn kém nhất, và sau đó dạy nó hiểu và nói được tiếng England. Tiến trình này có thể đi theo cách dạy thông thường cho một đứa trẻ. Những sự vật việc được chỉ và gọi tên,… Dẫu sao, tôi không biết trả lời nào là phải, nhưng tôi nghĩ cả hai cách đều nên được đem thử.
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy quãng ngắn đằng trước, nhưng chúng ta có thể thấy ở đó có nhiều việc phải làm”.
[23] [Ibid., ch. 7.]
[24] Neurological substratum : lớp nền trên đó có những nơrôn bám và hay phát triển
[25] [The Cambridge Declaration on Consciousness’, 7 July 2012, accessed 21 December 2014,
https://web.archive.org/web/20131109230457/http://fcmconference.org/img/CambridgeDeclarationOnConsciousness.pdf.]
[26] [John F. Cyran, Rita J. Valentino and Irwin Lucki, ‘Assessing Substrates Underlying the Behavioral Effects of Antidepressants Using the Modified Rat Forced Swimming Test’, Neuroscience and Behavioral Reviews 29:4–5 (2005), 569–74; Benoit Petit-Demoulière, Frank Chenu and Michel Bourin, ‘Forced Swimming Test in Mice: A Review of Antidepressant Activity’, Psychopharmacology 177:3 (2005), 245–55; Leda S. B. Garcia et al., ‘Acute Administration of Ketamine Induces Antidepressant-like Effects in the Forced Swimming Test and Increases BDNF Levels in the Rat Hippocampus’, Progress in Neuro-Psychopharmacology and Biological Psychiatry 32:1 (2008), 140–4; John F. Cryan, Cedric Mombereau and Annick Vassout, ‘The Tail Suspension Test as a Model for Assessing Antidepressant Activity: Review of Pharmacological and Genetic Studies in Mice’, Neuroscience and Behavioral Reviews29:4–5 (2005), 571– 625; James J. Crowley, Julie A. Blendy and Irwin Lucki, ‘Strain-dependent Antidepressant-like Effects of Citalopram in “the Mouse Tail Suspension Test’, Psychopharmacology183:2 (2005), 257–64; Juan C. Brenes, Michael Padilla and Jaime Fornaguera, ‘A Detailed Analysis of Open-Field Habituation and Behavioral and Neurochemical Antidepressant-like Effects in Postweaning Enriched Rats’, Behavioral Brain Research 197:1 (2009), 125–37; Juan Carlos Brenes Sáenz, Odir Rodríguez Villagra and Jaime Fornaguera Trías, ‘Factor Analysis of Forced Swimming Test, Sucrose Preference Test and Open Field Test on Enriched, Social and Isolated Reared Rats’, Behavioral Brain Research 169:1 (2006), 57–65.]
[27] [Marc Bekoff, ‘Observations of Scent-Marking and Discriminating Self from Others by a Domestic Dog (Canis familiaris): Tales of Displaced Yellow Snow’, Behavioral Processes 55:2 (2011), 75–9.]
[28] [For different levels of self-consciousness, see: Gregg, Are Dolphins Really Smart?, 59–66]
[29]scrub jays ?
[30] [Carolyn R. Raby et al., ‘Planning for the Future by Western Scrub Jays’, Nature 445:7130 (2007), 919–21.]
[31] [Michael Balter, ‘Stone-Throwing Chimp is Back – and This Time It’s Personal’, Science, 9 May 2012, accessed 21 December 2014, http://news.sciencemag.org/2012/05/stone-throwing-chimp-back-and-time-its-personal; Sara J. Shettleworth, ‘Clever Animals and Killjoy Explanations in Comparative Psychology’, Trends in Cognitive Sciences 14:11 (2010), 477–81.]
[32] [Gregg, Are Dolphins Really Smart?; Nicola S. Clayton, Timothy J. Bussey and Anthony Dickinson, ‘Can Animals Recall the Past and Plan for the Future?’, Nature Reviews Neuroscience 4:8 (2003), 685–91; William A. Roberts, ‘Are Animals Stuck in Time?’, Psychological Bulletin 128:3 (2002), 473–89; Endel Tulving, ‘Episodic Memory and Autonoesis: Uniquely Human?’, in The Missing Link in Cognition: Evolution of Self-Knowing Consciousness, ed. Herbert S. Terrace and Janet Metcalfe (Oxford: Oxford University Press), 3–56; Mariam Naqshbandi and William A. Roberts, ‘Anticipation of Future Events in Squirrel Monkeys (Saimiri sciureus) and Rats (Rattus norvegicus): Tests of the Bischof–Kohler Hypothesis’, Journal of Comparative Psychology 120:4 (2006), 345–57.]
[33] [I. B. A. Bartal, J. Decety and P. Mason, ‘Empathy and Pro-Social Behavior in Rats’, Science 334:6061 (2011), 1427–30; Gregg, Are Dolphins Really Smart?, 89.]
[34] [Christopher B. Ruff, Erik Trinkaus and Trenton W. Holliday, ‘Body Mass and Encephalization in Pleistocene Homo’, Nature 387:6629 (1997), 173–6; Maciej Henneberg and Maryna Steyn, ‘Trends in Cranial Capacity and Cranial Index in Subsaharan Africa During the Holocene’, American Journal of Human Biology 5:4 (1993), 473–9; Drew H. Bailey and David C. Geary, ‘Hominid Brain Evolution: Testing Climatic, Ecological, and Social Competition Models’, Human Nature 20:1 (2009), 67–79; Daniel J. Wescott and Richard L. Jantz, ‘Assessing Craniofacial Secular Change in American Blacks and Whites Using Geometric Morphometry’, in Modern Morphometrics in Physical Anthropology: Developments in Primatology: Progress and Prospects, ed. Dennis E. Slice (New York: Plenum Publishers, 2005), 231–45.]
[35] [See also Edward O. Wilson, The Social Conquest of the Earth (New York: Liveright, 2012).].
[36] [Cyril Edwin Black (ed.), The Transformation of Russian Society: Aspects of Social Change since 1861 (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1970), 279..]
[37] [NAEMI09, ‘Nicolae Ceauşescu LAST SPEECH (english subtitles) part 1 of 2’, 22 April 2010, accessed 21 December 2014, http://www.youtube.com/watch?v=wWIbCtz_Xwk.]
[38] [Tom Gallagher, Theft of a Nation: Romania since Communism (London: Hurst, 2005).]
[39] The Muslim Brotherhood: một tổ chức của những người Muslim, do Hassan al-Banna sáng lập năm in 1928,  ở Ismailia, Egypt; là một phong trào tôn giáo Islam bảo thủ, kết hợp nội dung tôn giáo với những lập trường chính trị và chủ trương xã hội .