Monday, May 19, 2014

Plato – Phaedo (02)

Phaedo
(Về Hồn-người)

(Φαίδων, Phaidōn)
Plato (Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347 TCN)






(63a)
Simmias nói: “Socrates, nhưng bản thân tôi thực sự nghĩ rằng rằng bây giờ Cebes có một luận điểm. Tại sao con người thực sự khôn ngoan sẽ muốn tránh những dịch vụ của những bậc thầy tốt hơn bản thân họ, và dễ dàng rời bỏ họ. Và tôi nghĩ Cebes đang nhắm lập luận của mình vào ông, vì ông đang cho thấy rời bỏ chúng tôi rất nhẹ nhõm, và rời bỏ những bậc thầy tốt đó, như chính ông nói, những vị gót”.
Cả hai bạn đều có lý, trong những gì các bạn nói, và tôi nghĩ bạn muốn nói rằng với điều này tôi phải làm một biện hộ, như thể tôi trong tòa án.
Ông chắc chắn phải thế, Simmias nói.

Vậy sau đó, ông nói, hãy để tôi gắng làm bài biện hộ của tôi với các bạn được thuyết phục hơn, không như đã với đoàn bồi thẩm tòa án. Bởi vì, Simmias và Cebes, tôi tất sẽ sai lầm để không oán hận khi chết, nếu như tôi đã không tin rằng trước tiên tôi nên đi đến những gót khôn ngoan và tốt khác, sau đó đến những người đã chết và tốt hơn những người ở đây. Hãy yên tâm, vì đó là điều, rằng tôi trông chờ để gia nhập đoàn thể của những người tốt. Tôi sẽ không hoàn toàn nhấn mạnh vào điều kể sau này, nhưng nếu tôi có nhấn mạnh vào bất cứ điều nào tất cả trong những vấn đề này, đó là điều rằng tôi sẽ đến với những vị gót, họ là những chủ nhân rất tốt. Đó là lý do tại sao tôi đã không oán giận như thế, vì tôi có nhiều hy vọng rằng một tương lai nào đó đang chờ đợi người ta sau cái chết, như chúng ta đã được bảo thế hàng bao nhiêu năm, một tương lai nhiều tốt đẹp cho kẻ tốt hơn cho kẻ ác.
Vâng thế bây giờ, Socrates, Simmias nói, ông có ý định giữ tin tưởng này cho bản thân mình, khi rời bỏ chúng tôi, hay có phải ông sẽ chia sẻ nó với chúng tôi? Tôi chắc chắn nghĩ nó cũng sẽ là một điều phúc lợi cho chúng tôi nữa, và đồng thời nó sẽ là biện hộ của ông nếu ông thuyết phục chúng tôi về những gì ông nói.
Tôi sẽ cố gắng, ông nói, nhưng trước tiên, tôi nghĩ, chúng ta hãy xem Crito ở đây muốn nói những gì đã một đỗi khá lâu rồi.
Còn gì khác nữa, Socrates, Crito nói, ngoài những gì người sẽ đem cho ông thuốc độc đã từng nói với tôi đã khá lâu, rằng tôi nên báo trước với ông hãy nói chuyện càng ít càng tốt. Người ta bị nóng lên khi họ nói chuyện, ông ta nói, và một người không nên bị nóng lên khi uống thuốc độc, vì những người đó đôi khi phải uống hai hoặc ba lần.
Socrates trả lời: “Đừng có chú ý tới ông ta; chỉ để mặc ông ta sửa soạn cho uống hai lần, hoặc nếu cần thiết, ba lần.”
Tôi đã khá chắc bụng rằng ông sẽ nói thế, Crito nói, nhưng ông ta đã làm phiền tôi tôi đã khá lâu.
Hãy để mặc ông ta, ông nói. Tôi muốn đưa biện luận của tôi ra trước các bạn, những người phán đoán của tôi, về phần tại sao tôi nghĩ rằng một người là người thực sự dành trọn đời mình trong triết học, thì có lẽ nhiều phần đúng để là một người vui vẻ lạc quan khi đối mặt với cái chết, và có rất nhiều hy vọng rằng sau cái chết, ông sẽ đạt được những phước lành lớn nhất ở đằng xa kia. Tôi sẽ gắng để nói cho các bạn biết, Simmias và Cebes, như thế nào điều này có thể được là thế. Tôi sợ rằng những người khác không nhận ra rằng một mục đích của những người đó, là những người thực hành triết lý, theo cách thức chính đáng là thực tập cho sự phải-chết và cái chết. Bây giờ nếu điều này là đúng, nó sẽ là kỳ lạ, quả thực, nếu họ đã háo hức thực sự với điều này trong suốt đời họ và sau đó lại oán giận với nó, khi những gì họ đã muốn và đã thực tập trong một thời gian dài, giờ đến với họ.
Simmias cười và nói: “Zeus ơi, Socrates, ông làm tôi cười, mặc dù đúng lúc này, tôi không có lòng dạ nào để cười. Tôi nghĩ rằng phần lớn người ta, khi nghe điều này, sẽ nghĩ rằng nó mô tả những triết gia rất khéo, và những người chúng tôi trong thành Thebes sẽ trước sau đồng ý rằng những triết gia là đều gần chết, và rằng đa số người ta thì đều nhận biết rõ rằng rằng họ xứng đáng để là thế.

Và họ sẽ là nói sự thật, Simmias, ngoại trừ tư cách nhận biết của họ. Họ không nhận biết về lối mà những triết gia thực thì gần chết, cũng không phải về lối mà họ đáng được là, cũng không phải về loại cái chết mà họ đáng được có. Nhưng đừng bận tâm đến họ, ông nói, chúng ta hãy nói giữa những bản thân chúng ta. Có phải chúng ta tin rằng có một điều gì đó như thể cái chết không?
Chắc chắn rồi, Simmias nói.
Có phải nó là bất cứ gì khác hơn sự tách biệt của hồn người khỏi thể xác? Có phải chúng ta tin rằng cái chết là thế này, nói cụ thể, rằng thân xác đi đến bị tách biệt bởi chính nó ra khỏi hồn người, và hồn người đi đến bị tách biệt bởi chính nó ra khỏi thân xác? Có phải cái chết là bất cứ gì nào khác hơn thế?
Không, đó là những gì nó là, ông nói.
Vậy sau đó, thưa quí ngài khả kính của tôi, hãy xem xét liệu các bạn có chia sẻ ý kiến ​​của tôi, vì điều này sẽ dẫn chúng ta đến một hiểu biết tốt hơn về những gì chúng ta đang thăm dò. Các bạn có nghĩ rằng đó là phần của một triết gia để bị bận tâm với những thứ được gọi là những thú vui như thể của những thức ăn và thức uống?
Tuyệt đối không.
Còn những thú vui của tình dục thì sao?
Hoàn toàn không tất cả.
Còn những thú vui khác liên quan với việc phục dịch cho thân xác? Các bạn có nghĩ rằng một người như thế lại tán dương chúng thật nhiều, việc mua quần áo và giày dép cho nổi bật, và những đồ trang sức thân xác khác? Các bạn có nghĩ rằng ông ta coi những điều này có giá trị, hay khinh thường chúng, ngoại trừ cho đến mức độ một người không thể không có chúng?
Tôi nghĩ triết gia chân thực thì khinh thường chúng.
Bạn không nghĩ, ông nói, rằng nói chung sự quan tâm của một con người như thế, thì không phải với thân xác, đến mức như ông có thể, nhưng rằng ông ta quay ra xa khỏi xác, hướng tới hồn?
Tôi nghĩ thế.
Thế nên, trước tiên, những điều như thế đó cho thấy rõ ràng rằng triết gia, nhiều hơn những người khác, trả tự do cho hồn người khỏi sự kết hợp với thân xác nhiều đến mức có thể được?
Rõ ràng là thế.
Một người là kẻ tìm thấy không có lạc thú trong những sự việc loại như vậy, và không dự phần trong chúng, thì được phần lớn người ta nghĩ là không xứng đáng để sống và là gần với cái chết, con người, đó là, ai mà không quan tâm đến những thú vui của thể xác.
Những gì ông nói thì chắc chắn đúng.

Sau đó, thế còn sự thu thập thực sự về hiểu biết thì sao? Có phải thân xác là một gì đứng cản trở khi người ấy liên kết với nó trong sự tìm kiếm hiểu biết? Ý tôi là, lấy thí dụ, người ta có tìm thấy được bất kỳ sự thật nào trong sự nhìn hoặc nghe hay không, hay có phải ngay cả những nhà thơ cũng vẫn nói mãi với chúng ta rằng chúng ta không nhìn thấy hoặc nghe thấy chính xác được bất cứ điều gì, và chắc chắn nếu hai giác quan thể chất đó là không rõ ràng hoặc chính xác, những giác quan khác của chúng ta khó có thể là chính xác, vì chúng tất cả đều kém hơn hai giác quan này. Bạn không nghĩ thế sao?
Tôi chắc chắn nghĩ thế, ông nói.

Vậy sau đó, ông hỏi, hồn người có nắm bắt được sự thật không? Vì bất cứ khi nào nó cố gắng để xem xét bất cứ điều gì cùng với thân xác, thì bị nó lừa dối rõ ràng.
Đúng.
Không phải là trong lý trí suy luận hay sao, nếu như có bất cứ chỗ nào mà bất kỳ thực tại nào trở nên rõ ràng với hồn người?
Phải
Và quả thực là hồn người suy luận hay nhất khi không một nào của những giác quan này làm phiền nhiễu nó, không thính giác cũng không thị giác, chẳng đau đớn cũng không khoái lạc, nhưng khi nó thì hoàn toàn chỉ bởi bản thân nó, sau khi rời bỏ thân xác, và càng xa càng tốt, không tiếp xúc hay liên kết với thân xác, trong sự tìm kiếm của nó về thực tại.
Đó là như vậy.
Và đó là khi mà hồn người của triết gia khinh miệt thân xác nhất, trốn chạy khỏi nó, và tìm để là chỉ bởi bản thân nó?
Điều xem dường là vậy.

Thế còn những gì tiếp sau đây, Simmias? Chúng ta có nói rằng có một điều gì đó loại như thể bản thân Công lý, hay không?
Chúng ta có nói như vậy, Zeus ơi.
Và cái Đẹp, và cái Tốt? [1]
Dĩ nhiên.
Và có bao giờ bạn nhìn thấy bất kỳ những điều này bằng mắt bạn?
Không có cách nào, ông nói.

Hoặc có bao giờ bạn từng nắm giữ chúng với bất kỳ giác quan thân xác nào của bạn? Tôi đang nói về tất cả những điều loại giống như sự To lớn, Sức khoẻ, Sức mạnh, và trong một từ, thực tại của tất cả những sự vật việc khác, mà trong mỗi chúng điều đó là yếu tính. Có phải những gì là đúng thật nhất trong chúng được nhìn đi xem lại qua cách suy niệm của thân xác [2], hay có phải đây mới là tư thế: bất cứ ai trong chúng ta sửa soạn cho mình tốt nhất và chính xác nhất để nắm giữ được bản thân của điều đó, vốn người ấy đang điều tra nó, là người sẽ đi gần nhất đến hiểu biết về nó?
Là rõ ràng.
Vậy sau đó, người sẽ làm điều này một cách hoàn hảo nhất là người tiếp cận đối tượng với chỉ đơn độc suy nghĩ, không kết hợp bất kỳ thị giác nào với suy nghĩ của mình, hoặc kéo vào bất kỳ cảm thức nào với lý luận của ông ta, nhưng là người sử dụng đơn độc chỉ suy nghĩ thuần túy, cố gắng để lần dấu theo xuống từng thực tại tinh khiết và tự thân, khi tháo gỡ mình, thật xa đến mức có thể, khỏi mắt và tai, và trong một từ, khỏi toàn bộ thân xác, vì thân xác làm hồn người bị lẫn lộn, và không để cho nó thu nhận được sự thật và khôn ngoan, bất cứ khi nào nó bị liên kết với thân xác. Không phải là con người đó sẽ đạt tới thực tại, Simmias, nếu như có một ai (làm được thế) hay không?
Những gì ông nói, Simmias nói, thì quả thực là sự thật.

Tất cả những điều này sẽ tất yếu làm những triết gia chân thực đều tin tưởng và nói với nhau một gì đó tựa thế này: “Chắc là có một gì đó loại giống như một lối đi để hướng dẫn chúng ta ra khỏi sự nhầm lẫn của chúng ta, vì chừng nào chúng ta có một thể xác và hồn người của chúng ta bị trộn làm một, với một tai ác loại như thế, chúng ta sẽ không bao giờ thoả đáng đạt được những gì chúng ta ao ước, vốn chúng ta khẳng định là sự thật. Thân xác giữ chúng ta bận rộn trong hàng nghìn cách vì nhu cầu của nó về dinh dưỡng. Hơn nữa, nếu một số bệnh tật nào đó xảy đến với nó, chúng cản trở sự tìm kiếm sự thật của chúng ta. Nó làm đầy chúng ta với những ham muốn, ao ước, sợ hãi, tất cả những loại ảo tưởng và nhiều những vô nghĩa, do đó, như đã được nói, trong sự thực và thực sự không có tư tưởng thuộc bất kỳ loại nào đã từng bao giờ đến với chúng ta từ thân xác. Chỉ thân xác và những ao ước của nó gây nên chiến tranh, bất hòa dân sự và những trận đánh, vì tất cả những chiến tranh là do sự thèm muốn để lấy được giàu có, và đó là thân xác và sự chăm sóc cho nó, vốn chúng ta thành nô lệ cho chúng, vốn ép buộc chúng ta để thu góp của cải làm giàu, và tất cả điều này làm chúng ta quá bận rộn, không thực hành triết học.
Tệ nhất tất cả, nếu chúng ta có lấy được một vài nghỉ ngơi khỏi nó, và quay sang một vài thăm dò nghiên cứu, đó đây khắp nơi trong những nghiên cứu của chúng ta, thân xác thì có mặt và gây nên bối rối và sợ hãi, nó ngăn cản chúng ta khỏi sự nhìn thấy sự thật như thế đó.

“Điều đã thực sự được cho chúng ta thấy, nếu chúng ta từng bao giờ có tri thức tinh khiết, rằng chúng ta phải thoát khỏi thân xác và quan sát những sự vật trong bản thân chúng, với chỉ bởi bản thân hồn người. Dường như chắc có lẽ rằng chúng ta, chỉ sau đó, khi chúng ta đã chết, sẽ đạt được điều chúng ta mong ước và được điều mà chúng ta tuyên bố là những người yêu của nó, cụ thể là, sự khôn ngoan, như lập luận của chúng ta cho thấy, không phải là đương khi chúng ta sống, vì nếu điều là không thể đạt được bất kỳ hiểu biết tinh khiết nào với thân xác, vậy sau đó một trong hai điều là đúng: hoặc là chúng ta không bao giờ có thể đạt được hiểu biết, hoặc là chúng ta có thể làm như vậy sau cái chết. Khi đó, chứ không phải trước đó, hồn người thì bởi chỉ bản thân nó, tách rời khỏi thân xác. Trong khi chúng ta sống, chúng ta sẽ là gần nhất với hiểu biết nếu chúng ta kiềm chế nhiều đến mức có thể được khỏi sự kết hợp với thân xác, và không nối nhập với nó nhiều hơn mức chúng ta buộc phải, nếu chúng ta không bị vấy nhiễm với bản chất của nó, nhưng tẩy lọc bản thân chúng ta khỏi nó, cho đến khi chính gót tháo gỡ chúng ta. Trong cách này chúng ta sẽ thoát khỏi sự ô nhiễm của sự điên rồ của thân xác; chúng ta sẽ có lẽ chắc là nhập vào đoàn thể của những người thuộc cùng loại, và bởi những nỗ lực của riêng chúng ta, chúng ta sẽ biết tất cả những gì là tinh khiết, vốn giả định có lẽ là sự thật, vì cái không-tinh khiết không được cho phép đạt đến cái tinh khiết.”

Đó là những điều loại giống như vậy, Simmias, rằng tất cả những ai là người yêu thích học tập theo cách thức chính đáng phải nói với nhau và tin tưởng. Hay bạn không nghĩ như vậy?
Tôi chắc chắn nghĩ thế, Socrates.
Và nếu điều này là thật, bạn tôi ơi, Socrates nói, có hy vọng tốt đẹp rằng khi đến nơi mà tôi sắp đi tới, nếu bất cứ nơi nào đi nữa, tôi sẽ có được những gì đã từng là sự bận tâm chính của chúng ta trong đời đã qua của chúng ta, do đó, hành trình bây giờ mà đã ra lệnh cho tôi thì đầy hy vọng tốt đẹp, như nó cũng là thế cho bất kỳ ai nào khác, là người tin rằng não thức của mình đã từng được chuẩn bị, và như nó đã, được gột rửa trong sạch.
Đó là chắc chắn, Simmias nói.
Và có phải sự gột rửa trong sạch không quay ra là những gì chúng ta đã đề cập trong lập luận của chúng ta một đỗi trước đây, cụ thể là, để tách biệt hồn người càng xa càng tốt khỏi thân xác, và làm nó quen với kết thập bản thân nó, và thu nhặt bản thân nó ra khỏi mọi phần của thân xác, và để ngụ cư bởi chính nó xa đến mức nó có thể, cả bây giờ và trong tương lai, được tự do, như nó đã, khỏi những trói buộc của thân xác?
Chắc chắn, ông nói.
Và tự do và sự phân tách của hồn người khỏi thân xác đó thì được gọi là cái chết?
Đó là cả thảy chung như vậy.

Điều là chỉ những ai thực hành triết lý theo con đường đúng, chúng ta nói, là người luôn luôn muốn nhất để cho hồn người được tự do, và cho đi thoát và tách biệt này của hồn người khỏi thân xác là sự bận tâm của những triết gia?
Nó xem dường như thế.
Thế nên, như tôi đã nói ở lúc đầu, nó sẽ là lố bịch để cho một người huấn luyện bản thân mình trong đời để sống trong một trạng thái càng gần với cái chết càng tốt, và sau đó phẫn uất với nó khi nó đến?
Lố bịch, dĩ nhiên.

Thực sự, Simmias, những ai là người thực hành triết học theo đúng đường lối, là trong sự huấn luyện cho sự chết-đi, và trong tất cả mọi người họ sợ cái chết ít nhất. Xem xét nó từ điểm nhìn này: nếu họ đã cả thảy giẻ lạnh với thân xác và mong ước có hồn của họ chỉ bởi bản thân nó, sẽ không phải là hoàn toàn phi lý để họ bị sợ hãi và phẫn uất khi điều này xảy đến? Nếu họ đã không hân hoan bắt đầu hành trình về một nơi, ở đó, khi đến, họ có thể có hy vọng đạt được điều mà họ đã khao khát trong suốt đời họ, đó là, sự khôn ngoan, và nơi họ sẽ khử sạch được sự hiện diện của cái mà họ đã xa lìa giẻ lạnh với nó?

Nhiều người, trước cái chết của những người thương yêu của họ, vợ, hay con trai, đã sẵn sàng để đi tới thế giới bên dưới [3], thúc đẩy bởi hy vọng nhìn thấy ở đó những người mà tập thể của những người này, họ ao ước được nhập đoàn, và ở cùng bên những người này. Vậy sau đó, có phải một người yêu thực sự của sự khôn ngoan, người có một hy vọng tương tự và biết rằng mình sẽ không bao giờ tìm thấy nó dẫu bất kỳ mức độ nào, ngoại trừ trong cõi của Hades, sẽ lại phẫn uất với phải-chết, và không hân hoan sẵn sàng chấp nhận cuộc hành trình đến chốn đó? Một người chắc chắn phải nghĩ như vậy, bạn của tôi ơi, nếu ông ta là một triết gia thực, vì ông đã tin chắc rằng ông sẽ không tìm thấy tri thức thuần túy ở bất cứ nơi nào, ngoại trừ ở đó. Và nếu điều này là thế, sau đó, như tôi vừa mới nói đây, sẽ không phải là rất không hợp lý cho lắm, nếu một người giống như thế lại sợ hãi cái chết?
Chắc chắn sẽ thế, Zeus ơi, ông nói.

Sau đó, bạn có đầy đủ sự chỉ định, ông nói, rằng bất kỳ người nào mà bạn nhìn thấy oán hận cái chết đã không là một người yêu của trí tuệ khôn ngoan, nhưng chỉ là một người yêu của thể xác, và cũng là một người yêu của giàu có, hay của tiếng tăm vinh dự, một trong hai hoặc cả hai.
Điều đó thì chắc chắn như ông nói.

Và, Simmias, ông nói, không phải những gì được gọi là can đảm thuộc về những người đặc biệt của tính khí này?
Hầu như chắc chắn.
Và phẩm chất của sự ôn hoà điều độ vốn ngay cả đa số gọi bằng tên đó, đó là, không để bị cuốn đi dẫu chỉ một bàn chân của một người bởi những đam mê của một người, nhưng để đối xử với chúng với thái độ khinh thị và sự nền nếp trật tự, không phải là điều này chỉ phù hợp với những ai là người hầu hết tất cả đều khinh miệt thân xác và sống đời sống của triết học?
Nhất thiết phải như vậy, ông nói.

Nếu bạn sẵn sàng để suy tưởng sâu xa về sự can đảm và sự điều độ của những người khác, bạn sẽ tìm thấy chúng là lạ lùng.
Trong cách nào, Socrates?
Bạn có biết rằng tất cả họ đều xem cái chết như một điều tai ác lớn?
Chắc chắn, ông nói.
Và kẻ dũng cảm trong số họ đối mặt với cái chết, khi họ làm thế, vì sợ những điều ác hại lớn hơn?
Đó là như vậy.
Thế nên, đó là sợ hãi và khiếp đảm mà làm tất cả những con người thành dũng cảm, trừ những triết gia. Tuy nhiên, nó là thiếu-lôgích để là dũng cảm đến qua cửa của sự sợ hãi và hèn nhát.
Đó chắc chắn là thế.

Thế còn sự ôn hoà điều độ trong đám họ? Có phải kinh nghiệm của họ không là tương tự? Có phải thuộc một thứ phóng đãng theo ý mình nó làm họ thành ôn hoà điều độ? Chúng ta nói điều này thì không thể có được, thế nhưng kinh nghiệm của họ về sự ôn hoà điều độ không phức tạp này quay ra là tương tự: họ sợ bị tước mất những thú vui khác vốn họ mong ước, vì vậy họ tránh xa một số thú vui vì họ bị những thú vui khác chinh phục. Bây giờ là đươc những thú vui làm chủ là những gì mà họ gọi là phóng đãng theo ý mình, nhưng những gì xảy ra cho họ là họ làm chủ những thú vui nào đó vì họ bị những thú vui khác làm chủ. Điều này cũng giống như những gì chúng ta vừa đề cập chỉ mới đây, rằng trong một cách nào đó nó là một thứ phóng đãng theo ý mình làm họ thành ôn hoà điều độ.
Điều đó xem dường giống thế.

Bạn Simmias tốt lành của tôi ơi, tôi sợ đây không phải là sự trao đổi đúng để đạt đến đức hạnh, trao những thú vui để đổi lấy những thú vui, những đau đớn lấy những đau đớn, và những sợ hãi lấy những sợ hãi, đổi cái lớn hơn lấy cái nhỏ hơn, như (đổi chác) những đồng tiền, nhưng tiền tệ hợp lệ duy nhất cho tất cả những điều này sẽ nên được trao đổi là sự khôn ngoan trí tuệ. Với điều này chúng ta có sự can đảm thực sự và ôn hoà điều độ và công lý, và trong ngắn gọn, đức hạnh chân thực, với sự khôn ngoan, cho dù những thú vui và những sợ hãi và tất cả những điều loại như thế là có mặt hoặc vắng mặt. Trao đổi được điều này với điều kia mà không có sự khôn ngoan, đức hạnh như vậy chỉ là ảo tưởng hiện ra đánh lừa bên ngoài của phẩm hạnh đạo đức, thực sự nó vừa vặn cho những kẻ nô lệ, thiếu tính hợp lý hay sự thật, trong khi đó, trong sự thật, sự điều độ và dũng cảm và công bằng là một sự tẩy lọc đi tất cả những điều giống như thế đó, và trí tuệ khôn ngoan chính nó là một loại của sự tẩy rửa hoặc sự làm tinh sạch. Có thể rằng những người là người đã thiết lập những nghi lễ thần bí cho chúng ta đã không phải là những người kém cỏi, nhưng đã nói trong những câu bí hiểm như câu đố rất xưa trước đây, khi họ nói rằng bất cứ ai đi đến tới thế giới bên dưới mà không được dẫn dắt và không thanh tẩy sẽ trầm mình trong bùn, trong khi ai là người đến đó đã tinh khiết và được dẫn dắt sẽ ở cùng những vị gót. Có thực sự, như những người quan tâm với những lời bí ẩn nói, nhiều người mang gậy thyrsus [4] nhưng những tín đồ chân thực của Bacchus thì ít. Những người nói sau, theo ý kiến ​​của tôi, không ai khác hơn là những người đã thực hành triết lý theo con đường đúng. Trong đời tôi, tôi đã để lại không gì mà còn chưa làm, nhiều đến mức có thể được, ngõ hầu để có thể được đếm kể vào trong số những người này, vì tôi đã mong muốn được nhập vào bằng mọi cách. Không biết sự thiết tha của tôi đã là đúng và chúng ta có hoàn thành được bất cứ gì hay không, tôi nghĩ rằng, chúng ta sẽ biết chắc chắn trong một thời gian ngắn nữa, gót sẵn sàng, khi đến tới đằng xa kia.

Ba Luận chứng về sự Bất tử của Hồn người (69e-84b)

Đây là bào chữa của tôi, Simmias và Cebes, rằng tôi chắc có nhiều phần là đúng để rời bỏ bạn hữu và những chủ nhân của tôi ở đây mà không oán giận, hay phàn nàn, sau khi tin rằng ở đó, như ở đây, tôi sẽ tìm thấy những người chủ tốt và những người bạn tốt. Nếu bào chữa của tôi thì thuyết phục với bạn hơn với ban bồi thẩm Athens, sẽ là điều tốt lành.

Khi Socrates nói xong, Cebes chen vào, ông nói: Socrates, tất cả mọi điều khác ông đã nói thì tuyệt vời, tôi nghĩ, nhưng nhiều người thấy rất khó để tin vào những gì ông nói về hồn người. Họ nghĩ rằng sau khi nó đã rời khỏi thân thể nó không còn tồn tại ở bất cứ nơi nào, nhưng rằng nó bị tiêu diệt và phân huỷ trong ngày người ta chết, ngay sau khi nó rời khỏi thân xác, và rằng, khi rời khỏi thân xác, nó thì phân tán như hơi thở hoặc hơi khói, đã bay đi xa, và đi mất, và thôi không còn là bất cứ gì ở bất cứ nơi nào. Nếu quả thực nó thu tập bản thân nó với nhau, và đã tồn tại bởi bản thân nó, và đã thoát khỏi những tai ác mà ông vừa mới liệt kê, sau đó sẽ có được nhiều hy vọng tốt đẹp, Socrates, rằng những gì ông nói là đúng, nhưng để tin vào điều này đòi hỏi rất nhiều lòng tin và luận cứ thuyết phục, để tin rằng hồn người vẫn còn tồn tại sau khi một người đã chết, và nó vẫn còn sở hữu một vài khả năng và sự thông minh.
Những gì bạn nói thì đúng, Cebes, Socrates nói, nhưng chúng ta sẽ làm gì đây? Bạn muốn bàn luận xem không biết liệu đây có thể là thực hay không, phải không?
Phần tôi, Cebes nói, tôi thích sẽ được nghe ý kiến ​​của ông về đề tài này.

Luận chứng thứ nhất 
 (70c-72e)

Tôi không nghĩ, Socrates nói, rằng bất cứ ai là người nghe tôi bây giờ, ngay cả một nhà thơ trào phúng, không có thể nói rằng tôi đương lắp bắp và bàn luận về những sự việc mà chúng không làm bận tâm tôi, vì vậy chúng ta phải xem xét câu hỏi trước sau cho kỹ lưỡng, nếu bạn nghĩ rằng chúng ta nên làm như vậy. Chúng ta hãy xem xét nó trong một số cách thức như thế này: Không biết liệu những hồn của những người đã chết có tồn tại trong thế giới bên dưới hay không. Chúng ta nhớ lại một lý thuyết thời cổ rằng những hồn người đến nơi đó từ nơi đây, và sau đó lại nữa rằng chúng đến nơi đây và được sinh ra ở đây từ người chết. Nếu đó là sự thật, rằng người sống trở lại từ người chết, khi đó chắc chắn những hồn chúng ta phải tồn tại ở đó, vì chúng đã không thể trở lại nếu như chúng đã không tồn tại, và đây là một bằng chứng đầy đủ rằng những điều này là như vậy, nếu nó thực sự hiện ra rằng người sống không bao giờ đến từ bất cứ nguồn nào khác hơn từ người chết, nếu đây không phải là trường hợp xảy ra, chúng ta sẽ cần một luận chứng khác.[5]
Hoàn toàn như vậy, Cebes nói.

(70e)
Đừng có, ông nói, tự giới hạn mình vào loài người,....


Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất 
(Nov/2013)





[1] Bản Fowler – “công chính tuyệt đối”, cái đẹp tuyệt đối, tốt lành tuyệt đối,... Trong bản tiếng Pháp Cousin: “juste en soi”, (và tương tự: de beau, de bon, .... les choses de ce genre, comme la grandeur, la santé, la force, en un mot de l’essence de toutes les autres choses).
Cũng như câu trước đó, các khái niệm trừu tượng, gọi là những ý tưởng (εἶδος /eidos=idea): Hồn, Công lý, Đẹp, Tốt,... ở đây bắt đầu được Plato giới thiệu như những ý tưởng tuyệt đối (Theory of Ideas), thuần túy trừu tượng, gần như phi vật chất (sự To lớn, Sức khoẻ, Sức mạnh,...). Khi nhấn mạnh vào tính chất vĩnh cửu, bất biến, và được Plato cho là “thực” hơn (“trong mỗi chúng điều đó là yếu tính”), đối nghịch với những sao chép bất toàn của chúng trong thế giới giác quan, trong thế giới chúng ta chỉ thấy những dạng của chúng, như những hình ảnh chập chờn, trên tường đá của những người bị trói trong Dụ ngôn Cái hang, chúng ta gọi là thế giới hiện tượng – thành Theory of Forms – tôi tạm gọi là Thuyết về những Thể dạng.
Ở đây, tôi dịch “the Just itself” là “bản thân công lý” – tạm hiểu “chỉ công lý” mà thôi, không gì khác ngoài nó, tương ứng với khái niệm thanh lọc cho tinh túy của Plato đang nói; nhưng không muốn dịch bằng khái niệm tự-thân, vì khái niệm này giờ đây đã quá phổ biến – itself – thường được hiểu với nội dung như những gì Kant đã giảng giải về nó. Tuy nhiên, “bản thân” công lý là gì, khác với công lý nói chung như thế nào? – những gì khác với không-nó là gì,... là những tranh luận phiền nhiễu và dài dòng, vì Plato – bắt đầu ở đây – khi ông đưa ra những khái niệm trừu tượng này, với chúng ta ngày nay, xem ra không còn triệt để, rõ ràng. Sự không-rõ ràng này sẽ đưa tới một tranh luận quan trọng – có phải ngay cả “hồn” – cũng chỉ là một ý tưởng tuyệt đối, hay một thể có tính vĩnh cửu bất biến, mà hồn-người trong mỗi cá nhân là một dạng, một bản sao bất toàn của nó, hiểu như chính thuyết Thể dạng của Plato, bắt đầu ở đoạn trên, trong Phaedo này.
[2] Bản tiếng Anh chỉ là “contemplated through the body” hay bản tiếng Pháp “Est-ce au moyen du corps que l’on observe ce qu’il y a de plus vrai en elles ?”; “suy nghiệm qua thân xác”, hay “quan sát bằng phương tiện của thân xác”; bản tiếng Pháp khi dịch sang tiếng Việt có vẻ cho chúng ta ý nghĩa rõ ràng hơn. Nhưng có thể bản tiếng Anh “suy tưởng qua thân thân xác” (?) không rõ ràng để cố ý cho chúng ta thấy sự thiếu xót của Plato, điển hình ở đây, nếu chúng ta đặt câu hỏi – thế nào là suy niệm/suy tưởng dùng thân xác? – chúng ta có thể suy nghĩ nếu với không thân xác được không? – nghĩa là vấn đề lớn hơn (dualism) phân biệt thân xác và tâm lý/ tinh thần (hồn người) đã dựa trên rất nhiều giả định, và những giả định này không tất cả đứng vững hoàn toàn, và với thời gian đã lần lượt bị xem xét lại. Thí dụ: từ Plato đến thế kỷ qua, vẫn có quan niệm (giả định) mặc nhận rằng những gì có vẻ xảy ra trong não bộ chúng ta, mà chúng ta gọi chung là suy nghĩ, không “thuộc” về thân xác, hay ít nhất có thể gạn lọc/có thể tách khỏi thân xác (như Plato ở đây), nghĩa là những dòng điện/động lực/năng lượng dẫn/chạy trong các nơrôn thần kinh không phải là thân xác?
Tôi chỉ có thể dịch như trên, theo bản tiếng Anh, để giữ ý, có lẽ của Grube.
[3] Thế giới bên dưới (underworld): nơi trú ngụ bí ẩn của những người chết. Cõi của gót Hades (Pluto). Ngày nay chúng ta gọi là “thế giới bên kía”, nhưng với người cổ Greek (Plato), khi họ nói về thế giới sau thế giới hiện tại này của chúng ta, là” thế giới bên dưới” (underworld), họ hoàn toàn nói với nghĩa đen, hiểu là một thế giới hữu hình, nơi nào đó ở ngay dưới đất ngầm, trong lòng đất, mà người ta có thể dùng xẻng đào, xới, và mở đường đi xuống.
Ngày nay, và ở đây; có hai khái niệm khác nhau – thế giới chúng ta đang sống (thế giới này), và đời của chúng ta hiện có trong thế giới biết được này (đời này) – chúng liên hệ với nhau và có hai tương ứng: Thế giới bên dưới /bên kia (Underworld) và Đời sau (Afterlife), hai tương ứng này – cùng có tính chất là không biết chắc, phỏng đoán.
“Who knows if to live is to be dead, and to be dead, to live? And we really, it may be, are dead; in fact I once heard sages say that we are now dead, and the body is our tomb …”
“Ai biết chắc được, nếu có phải để sống là để bị chết, và để bị chết là để sống? Và chúng ta, có thể thật sự, là đã chết; Quả thực, tôi có lần nghe những nhà hiền triết nói rằng – chúng ta giờ đây là đã chết, và thân xác là nhà mồ của chúng ta.” (Plato, Gorgias, đoạn 492e).
[4] Thyrsus: (cổ Greece) cây gậy hay cây giáo, đầu có gắn trang trí một quả thông khô, đôi khi cũng quấn với dây lá ivy hay dây lá nho. Dionysus (Bacchus) và những tín đồ của ông thường cầm trên tay.
[5] Transmigration of souls hay metempsychosis [Latin từ Greek metempsukhōsis, gồm: meta – (chỉ sự chuyển dịch, đổi chỗ) + en (trong/của) + psukhē (hồn) = chuyển dịch hồn], tôi tạm dịch là sự chuyển sinh của hồn: một tin tưởng phổ thông gặp trong nhiều dân tộc/văn hoá, theo đó hồn người chuyển từ một thân xác này qua một thân xác khác, hoặc của người, hay của thú vật, cây cỏ, hay cả những vật vô tri giác.

Được biết, người Egypt tin vào thuyết hồn chuyển sinh. Họ nghĩ rằng hồn được chuyển dịch từ thân xác này sang thân xác khác, và đây là lý do họ có tục ướp thân xác để gìn giữ nó trong trạng thái lúc vừa chết, để nó có thể du hành cùng với Ka, một năng lực làm thân xác sinh động, vốn vẫn được cho là đối tác của thân xác, Ka sẽ cùng thân xác đi sang thế giới kế tiếp hoặc đời sau. Ka có thể được coi là tương đương với thuật ngữ hồn. Điều này thiết lập niên đại của khái niệm về sự tái sinh ngược về tôn giáo cổ của Egypt, nhưng nhiều người nghĩ rằng nó còn xưa hơn nữa, có từ lâu trước thời cổ đại.
Tin tưởng này được cho là một tất yếu giữa các dân tộc nguyên thủy. Chắc chắn rất lâu trước khi người Egypt cổ đại tin vào sự chuyển sinh của hồn người. Nếu những dân tộc nguyên thủy không đủ tinh vi để hiểu khái niệm về hồn-người, vậy sau đó họ có thể chỉ đơn giản gọi nó là sự sống. Một cá nhân hoặc một đối tượng, có chuyển động, có đi lại, là có sự sống, và một ai không thế, là không có sự sống. Tính chất/dấu hiệu đầu tiên của sự chết là sự bất động. Điều này tương tự như tin tưởng của thuyết vạn vật có hồn (animism – vật linh).
Dần dần khái niệm về một hồn-người phát triển với sự nhận thức thêm rằng – hồn người rời khỏi thân xác khi chết và nhập vào thân xác khi sinh. Có lẽ không lâu sau đó, được cho thêm là hồn rời khỏi xác sẽ tìm thân xác khác để nhập vào, hoặc nhập vào một con vật của một dạng sống thấp hơn. Nó cũng được cho là hồn có thể rời thân xác trong khi ngủ. Hồn hiểu như thế đã được hình dung tựa như hơi, hay hơi thở, đến và đi khỏi xác qua mũi và miệng. Sau này lớn dần ý tưởng, hồn chuyển sinh vào một trẻ sơ sinh, là từ một trong những thân nhân đã chết của trẻ đó. Điều này nhằm giải thích về những giống nhau và tương đồng thấy giữ những người đồng tộc/gia đình.

Theo truyền thuyết Greece – Sau cái chết không có sự hủy diệt. Người chết gọi là chết vì họ sống một cuộc sống nhạt nhẽo chán ngắt và không hạnh phúc trong thế giới bên dưới. Những người, cho các mục đích thực tiễn, chúng ta gọi là đã chết, nhưng thực sự họ vẫn hiện hữu và sống tất cả trong hạnh phúc, ở trong quần đảo của Blest hay Elysium, được gọi là những người bất tử (Immortals). Vì vậy, sống và chết là những phẩm chất của sự hiện hữu, không phải là có hay thiếu sự hiện hữu. Styx đôi khi được coi là dòng sông những hồn người chết phải băng qua để vào cõi của người chết, mặc dù tại những thời khác, có vẻ là hồn có thể vượt qua sông Acheron (sông Khốn), hoặc xuống thuyền ở sông này, theo dòng của nó, đến Hồ Acherusian. Một số người nói rằng đó là trong hồ này là người lái đò Charon nhận hai obols như giá đi đò. Tartarus là vực thẳm thấp nhất bên dưới trái đất, gốc của tất cả các nguồn nước; tất cả các con sông chảy vào vực thẳm của Tartarus và cũng lại từ đó chảy ra. Tartarus là, họ nói, một nơi ảm đạm, cách xa trái đất như trái đất cách xa bầu trời. Tartarus và Thế giới bên dưới là lĩnh vực của Erebus, là đêm tối vĩnh viễn. Tartarus cũng là một nơi dành cho sự trừng phạt.

Số phận của Hồn-người
Về định nghĩa đầu tiên có thể có được của sự chuyển sinh của hồn người (transmigration) đến từ Pythagoras, nhà triết học toán học Greece, ông dạy rằng hồn thì bất tử và chỉ cư trú trong thân xác; do đó, nó vẫn tồn tại sau cái chết, vì theo ông chết chỉ là cái chết của thân xác chúng ta thấy bị tan rã. Lý thuyết của ông cũng còn nói thêm – sau khi (xác) chết, hồn người còn đi qua một chuỗi những tái sinh. Giữa cái chết và sự tái sinh, hồn nghỉ ngơi và được tinh lọc trong Thế giới bên dưới. Sau khi hồn đã hoàn thành một chuỗi gồm những tái sinh này, nó trở nên hoàn toàn tinh khiết, khi đó, nó có thể rời khỏi chu kỳ chuyển sinh.
Từ các mảnh văn bản hiếm hoi còn lại, đã gắn tên tuổi Pythagoras, và những người theo ông, với thuyết hồn chuyển sinh (metempsychosis) này, trong đó hồn của người chết tái sinh vào một thân thể khác. Pythagoras tin vào sự chuyển sinh của hồn người, và xem việc ăn thịt như là một điều ghê tởm, nói rằng hồn của tất cả các sinh vật sống, sau cái chết đều di cư, hay chuyển sang ở những sinh vật sống khác. Và về phần chính mình, ông đã tuyên bố rằng ông “nhớ” mình đã là Euphorbus, con trai của Panthus, người đã bị Menelaus giết, trong thời xảy ra cuộc chiến thành Troy.
Một mảnh nổi tiếng của Xenophanes, đồng thời với Pythagoras, cho một vài thông tin cụ thể hơn về những gì xảy ra cho hồn sau cái chết. Theo Xenophanes kể lại “một lần, khi ông [Pythagoras] đương có mặt khi người ta đánh một con chó con, ông thương hại nó và nói ‘dừng lại, đừng có đánh nó mãi như thế, vì nó là hồn của một người thân thiết với tôi, mà tôi nhận ra được, khi tôi nghe nó kêu đau”.
Đó là thuyết của những người theo học phái Pythagoras, Socrates tóm tắt và thuật lại trong đoạn văn trên đây – khi nói rằng những người sống được thành hình từ những kẻ Chết, (hay, đến cõi Sống từ cõi Chết). Plato duyệt qua những gì đã có, phân tích, phê bình, trước khi đưa ra thuyết của chính ông về hồn-người.