Friday, May 24, 2013

Martin Heidegger – Người Suy nghĩ như Thi sĩ

Người Suy nghĩ như Thi sĩ
The Thinker As Poet

(Aus der erfahrung des Denkens)
Martin Heidegger (1947)  [1]








Đường đi và cân bằng
Thi pháp và ngôn từ
Gặp trong lần đi bộ một mình

Nặng gánh không ngừng đi
Tìm hỏi và có-sẵn
Trên lối đời ràng buộc duy nhất của bạn.

 
Khi ánh sáng sớm mai lặng lẽ
bừng sáng bên trên rặng núi. . . .

Tối đen dần của thế giới không bao giờ đạt
đến ánh sáng của Hữu thể.

Chúng ta quá trễ với những vị gót và quá
sớm với Hữu thể. Bài thơ của Hữu thể,
mới chỉ bắt đầu, là con người.

Để hướng tới một vì saochỉ điều này.

Suy nghĩ là giới hạn chính mình vào một
suy tưởng độc nhất mà rồi một ngày đứng
im như một vì sao trên bầu trời của thế giới.


Khi chiếc chong chóng gió nhỏ ở bên ngoài
cửa sổ cabin hát trong
giông bão đang kéo đến....

Khi can đảm của suy tưởng nẩy nhánh từ
sự đưa tới của Hữu thể, sau đó
ngôn ngữ của định mệnh lớn mạnh khởi sắc.

Liền ngay khi chúng ta có sự vật trước
mắt chúng ta, và trong tim chúng ta có một tai nghe
cho lời nói, sự suy nghĩ thịnh đạt.

Ít ai có đủ kinh nghiệm trong
sự khác biệt giữa một đối tượng của
học hỏi và một vấn đề suy tưởng.

Nếu trong suy nghĩ đã có rồi
những đối thủ và không chỉ đơn thuần
những phản đối, sau đó trường hợp đương suy nghĩ
sẽ là nhiều thuận lợi hơn.


Khi qua một lỗ hổng trong cơn mưa-đầy-mây-dày
rọi chiếu một tia sáng mặt trời thình lình lướt đi
trên sự u ám của đồng cỏ. . . .

Chúng ta không bao giờ đi đến những suy tưởng. Chúng đến
với chúng ta.
Đó là giờ thích hợp của ngôn từ.

Ngôn từ cổ vũ chúng ta đến hồi tưởng
đồng hành thân mật. Trầm tưởng như vậy không
kéo đi diễn hành những ý kiến tranh cãi và cũng không
dung thứ sự thỏa thuận còn phàn nàn. Cánh buồm
của suy nghĩ cứ lướt mạnh tới gọt tỉa vào
luồng gió của nội dung.

Từ sự đồng hành như thế một số ít có lẽ
có thể nổi lên là những thợ lành nghề trong
thuật-khéo của sự suy nghĩ. Như thế khiến một người trong số họ,
không thấy trước, có thể trở thành một bậc thầy.

Khi vào đầu mùa hè hoa narcissi cô đơn
bừng nở nhưng ẩn trong đồng cỏ và
hoa rock-rose [2] lấp lánh dưới cây maple ....

Sự huy hoàng của sự đơn giản.
Chỉ hình ảnh đã hình thành giữ cái nhìn.
Tuy nhiên, hình ảnh đã hình thành nằm nghỉ trong bài thơ.

Làm sao dòng chảy vui vẻ có thể
thấu qua chúng ta nếu chúng ta đã muốn lảng xa
sự buồn bã?

Đau đớn đem cho sức mạnh chữa bệnh của nó
ở chỗ chúng ta ít mong chờ nó nhất.


Khi gió, chuyển biến nhanh chóng, gầm lên
trong những xà nhà của cabin, và
thời tiết đe dọa sẽ thành khó chịu. . . .

Ba nguy hiểm đe dọa sự suy nghĩ.
Cái Tốt và do đó nguy hiểm
tráng kiện là sự gần gũi của nhà thơ
ca hát.

Cái Ác và do đó nguy hiểm kiên trì nhất là
chính bản thân sự suy nghĩ. Nó phải suy nghĩ
đối lại bản thân nó, vốn là điều nó chỉ có thể
họa hoằn làm được.

Cái Xấu và do đó nguy hiểm quấy bùn hỗn độn
là sự triết lý.


Khi vào một ngày mùa hè, con bướm
đậu yên trên hoa và cánh
khép, đong đưa với nó trong
gió thoảng chốn đồng cỏ....

Tất cả can đảm của con tim chúng ta là
sự vang vọng đáp ứng với tiếng
gọi đầu tiên của Hữu thể vốn nó
tụ hợp suy nghĩ của chúng ta vào trong
cuộc chơi của thế giới.

Trong suy nghĩ tất cả mọi điều
trở nên đơn độc và chậm chạp.
Kiên nhẫn nuôi dưỡng hào khí cao thượng.

Ai là người suy nghĩ lớn lao phải
sai lầm lớn lao.


Khi dòng nước róc rách trên núi trong tĩnh lặng
của đêm kể về sự nó lao đầu xuống
trên những tảng đá mòn. . . .

Già cũ nhất của cái cũ đi theo đằng sau
chúng ta trong suy nghĩ của chúng ta, thế nhưng nó
đến gặp chúng ta.

Đó là tại sao suy nghĩ bám vào
cái đi-đến của những gì đã từng có, và đã
được-nhớ-lại.

Trở thành già giặn có nghĩa: ngừng lại đúng lúc ở
chỗ đó, ở đấy suy tưởng
độc nhất của một đoàn tàu suy tưởng đã
quành lượn vào chỗ nối của nó.

Chúng ta có thể đánh bạo bước lùi ra
khỏi triết học vào trong sự suy tưởng của
Hữu thể ngay khi chúng ta đã phát triển
quen thuộc với  gốc nguồn của
sự suy nghĩ.


Khi trong những đêm đông bão tuyết
xé rách cabin, và một buổi sáng
quang cảnh thì bít bùng trong tấm mền bằng
tuyết của nó... .

Nói lên của suy nghĩ sẽ là vẫn còn trong
sự tồn tại của nó chỉ bằng trở thành không có khả năng
để nói về điều mà nó phải giữ
không nói ra.

Sự bất khả như vậy sẽ đem suy nghĩ
mặt đối mặt với nội dung của nó.

Những gì được-nói ra thì không bao giờ, và không trong
ngôn ngữ nào, là những gì đã-nói.

Một suy nghĩ là thế đó, mãi mãi và thình lình  —
kinh ngạc của ai đây có thể hiểu sâu tận đáy nó được?


Khi tiếng lục lạc ở cổ bò tiếp tục leng keng từ
sườn thung lũng trong núi
nơi đàn thú đi lang thang thong thả. . . .

Tính cách thi ca của suy nghĩ thì
vẫn còn phủ màn che.

Nơi mà nó cho thấy chính nó, đã trong một
thời gian dài giống như sự không tưởng của
một trí tuệ thơ-một-nửa.

Nhưng thơ mà suy nghĩ thì trong sự thật
cấu trúc địa hình của Hữu thể.
Cấu trúc địa hình này bảo Hữu thể
những nơi nào là nó thực sự
có mặt


Khi ánh sáng buổi tối, chiếu xiên vào
khu rừng đâu đó, nhuộm những thân cây
trong sắc vàng. . . .

Ca hát và suy nghĩ là những nhánh cành
hàng xóm với thi ca.
Chúng lớn dậy từ Hữu thể và vươn tới vào trong
sự thực của nó.

Quan hệ của chúng làm chúng ta suy tưởng về những gì
Holderlin hát về những cây trong
rừng:

"Và với lẫn nhau chúng vẫn xa lạ không biết,
miễn là đến chừng nào chúng đứng đó, những thân cây
cạnh nhau.”


Rừng trải rộng
khe suối lao sâu
Đá kiên gan
Sương khuếch tán

Đồng cỏ chờ đợi
Suối đọng nước
Gió trụ
nàng-Thơ phước lành


Martin Heidegger (1889-1976)
Lê Dọn Bàn tạm dịch



1.
Suy nghĩ (νοεῖν – noein) và thi ca (ποίησις  – poiesis)

Chúng ta có lẽ đều biết đến pho tượng nổi tiếng – Le Penseur của Rodin, nhưng hiếm ai còn nhớ tên gọi ban đầu Le Poète của nó, và pho tượng đã được phổ thông như biểu tượng của suy tưởng. Triết gia và Thi sĩ, hay Suy tưởng và Thi ca có liên hệ ra sao. Câu hỏi này dễ dàng dẫn về một câu hỏi cơ bản hơn: ngôn ngữ trong thi ca và ngôn ngữ trong triết học – là một hay hai? Thoáng nhìn tổng quát, chúng ta có thể nghiêng sang lời đáp – có lẽ cả hai là một, vì trong những luận giải triết học, đặc biệt càng xưa bao nhiêu, chúng ta càng thấy ẩn dụ hiện diện phong phú bấy nhiêu. Thí dụ, “Chúng ta không bao giờ tắm hai lần trong cùng một dòng sông” – một ẩn dụ quen thuộc của Heraclitus, và bản văn triết học dài hơn, vẫn được xem là đẹp nhất của triết học phương Tây, Dụ ngôn cái Hang của Plato hiển nhiên là một ẩn dụ tuyệt vời, và không ai phủ nhận, một thí dụ vội vàng khác, trong một truyền thống suy tưởng khác, Tiêu Dao Du của Trang tử, cũng là những ẩn dụ đẹp không kém. Thế nên, nếu chúng ta xem thi ca là “những nhắn gửi được diễn tả chính nó bằng vần, nhịp điệu, đối xứng, lập lại và những mô típ (motifs) – phương thức diễn tả chủ yếu trong Thi ca là những ẩn dụ, như định nghĩa ngôn ngữ thi ca của Jacobson [3], chúng ta thấy sự gần gũi giữa Suy tưởng và Thi ca có nền tảng sâu xa.

Tuy vậy, những câu hỏi loại này không thực sự là câu hỏi của Heidegger, đằng sau những gì ông viết là câu hỏi khác, hay ít nhất nhìn dưới lăng kính khác. Ông cho chúng ta một ý để đoán – khi ông nhắc một câu thơ của Holderlin:
“và trong một thời khốn cùng những thi sĩ để làm gì?...”

Heidegger trả lời một phần câu hỏi này, qua bài thơ Aus der erfahrung des Denkens tôi tạm dịch trên đây – bằng cách quay về Hylạp, thời trước-Socrates, (có lẽ vì Nietzsche nói thời Socrates đã suy đồi mất rồi).

Plato nhìn nghệ thuật như một sự bắt chước của một sự bắt chước – vì nghệ thuật mô phỏng, bắt chước thế giới hiện tượng, và chính thế giới này lại chỉ là những bắt chước, mô phỏng nhỏ nhặt, nhất thời, lệch lạc của một thế giới nguyên thủy, thế giới “thực” – (thế giới giả định của Plato, gồm chỉ những ý tưởng và chúng là phổ quát, vĩnh cửu, và tuyệt đối). Thế nên, những hình thức biểu hiện của nghệ thuật, trong đó gồm cả thơ ca, chỉ là sự mô phỏng của những bản sao, nên giá trị chân thực của chúng rất đáng nghi ngờ, vì qua sao chép, bản chất của sự vật đã bị mất, bị hư hỏng, sự thật không còn, vì trong hình bóng phản chiếu của  hình bóng chỉ có thể có những ảo tưởng. Thi ca chẳng hạn, là xa lạc, lừa dối, bất chính và thấp kém. Đến Aristote, ông xác định và liên kết khái niệm poiesis, nghệ thuật của tạo tác với khái niệm mimesis (bắt chước) trong kịch nghệ, mở ra và từ đó bắt đầu một quan điểm truyền thống ở phương Tây, nhìn nghệ thuật như một hình thức của mô phỏng hay sao chép.

Heidegger tìm thấy trong bi kịch Sophocle khái niệm techne, có nghĩa là “biết cách làm – làm thế nào” hay “bí quyết”, theo ông mới thực là tương ứng với poiesis, vốn là từ Hylạp cổ: ποίησις, có nghĩa là “tạo tác, làm” (fabrication, make), những nghĩa này xưa hơn và và nguyên thủy hơn, “tạo tác” ở đây là đưa ra trước, hình thành lên, phơi mở ranhư hoa nở, như bướm thoát từ vỏ kén, khác với sự diễn dịch khái niệm này của Plato, Aristote về sau. Như thế, Heidegger tìm một khái niệm của suy tưởng triết học và thi ca, được cho là nguyên thủy hơn so với truyền thống bắt đầu với Poetics của Aristotle, là người mà sự suy tưởng đã được chuyển nhập vào mô hình của sự trông-nhìn-suy nghĩ-hiểu-nói. Bằng cách tổng hợp, sau đó Heidegger cố gắng chứng minh quan hệ thân tộc giữa những khái niệm với nội dung ban đầu của poiesisnoein như chúng đã được hình thành từ nguyên thủy.

2.
Heidegger cho rằng suy nghĩ thời trước-Socrates phân biệt chính nó bằng sự kiện là nó vẫn còn đầy thi ca và tương ứng, như trong thơ Sophocles vẫn còn phân biệt được bởi sự kiện là nó vẫn còn đầy suy tưởng.

Thơ của những nhà thơ cổ Hylạp ban đầu, nhìn trong nội dung của nó, đã đặc trưng bởi tính chất suy tưởng của nó. Điều này có nghĩa là chúng ta không dựa trên tiêu chuẩn hình thức; thơ của những nhà thơ Hylạp không là thơ chỉ đơn giản vì họ sử dụng ngôn ngữ thơ, và tương ứng như thế, suy nghĩ của những nhà triết học trước-Socrates vẫn là thơ (mang tính thơ) không phải vì suy nghĩ của họ thường được thể hiện trong ngôn ngữ của nhà thơ. Giải pháp có thể giải quyết chỗ bế tắc (aporia) này và đồng thời có thể đưa đến một sự hiểu biết sâu xa hơn về thơ cũng như suy tưởng triết học, Heidegger xem poiesis là một phương thức của phơi mở (một letheia) của Hữu thể; vốn mang khái niệm rộng hơn, và do đó có thể giả định phương thức hoặc là của diễn ngôn triết học hay hoặc là của diễn ngôn thi ca. Nếu không thế, ít nhất có thể đưa ra một diễn giải khác về khái niệm thi ca (poiesis) để đem cho sự thống nhất, tương tự của nhà thơ và triết gia. Đó là  thi ca không là sự mô phỏng bắt chước, nhưng Thi ca trở thành chỗ ban đầu của sự phơi mở của Hữu thể, cho dù điều này trở thành chủ đề trong trường hợp của những nhà triết học hoặc không thành chủ đề trong trường hợp của nhà thơ. Hiểu như vậy, điều này cho phép chúng ta hiểu giải thích (aus-legen) của Heidegger về những gì là tiềm ẩn trong thơ Hylạp ban đầu để làm sáng tỏ cách giải thích của ông về những triết gia Hylạp ban đầu.

3.
Có một cách suy nghĩ đặc biệt thi ca hay không? Heidegger nghĩ là có. Trong các tác phẩm sau này của ông, ông phân biệt suy tưởng thơ với suy tưởng triết học. Đối với Heidegger hai phong cách này của suy nghĩ là trong một số cách thức khá giống nhaucả hai đều đòi hỏi người suy nghĩ tránh xa duy lý khoa học (hoặc điều mà Heidegger gọi “công nghệ kỹ thuật”). Theo Heidegger, suy nghĩ như thế để có thể tiếp cận đến “huyền nhiệm bí ẩn” của hữu thể (Sein). Nhưng Heidegger cũng nhấn mạnh rằng chúng có khác biệt. Nhưng những gì là khác biệt thì Heidegger để những người đọc ông tự trả lời. Như ông nói, cuộc đối thoại giữa thơ và suy tưởng là một con đường dài, và chỉ mới bắt đầu.

Julian Young, (trong Triết học của Heidegger thời về sau) đưa ra diễn giải sau đây về sự phân biệt hai suy tưởng theo Heidegger: Suy nghĩ triết học, trầm tưởng, là biện luận, trong khi suy nghĩ thơ là trực giác và trực tiếp. Suy nghĩ triết học như vậy là giới hạn vào sự trỏ đến hữu thể trong một cách tiêu cực, thụ động; trong khi suy nghĩ thi ca cho phép nhà tư tưởng thực sự đặt chân vào bên trong lĩnh vực của hữu thể. Như vậy, một cách hết sức khái quát, với Heidegger, cả hai hoạt động suy nghĩ và làm thơ của chúng ta – chúng gần nhau, vì đều bắt nguồn từ những gì xoay quanh một khái niệm khác của ông về con người và đời sống của nó là Hữu thể.

4.
Một câu hỏi – chỉ nói quanh mà không bàn ở đây: Dasein là gì.

Trong bài thơ trên – Sein đã dịch là Being, và tôi tạm dịch là Hữu thể, một từ phổ thông, nhưng thực ra có thể chẳng có ý nghĩa gì cả, vì Sein không là hữu, mà cũng không là thể, vắn tắt tôi muốn nói – hữu thể là một từ quá mông lung; khi một ai đó viết “con người là một hữu thể”, thì nó chỉ có nghĩa đơn giản là “con người là một gì có-đó” và đáng lẽ cũng chỉ nên viết như thế, (chúng ta đã tự hành hạ mình bằng những chữ Tàu, vốn chúng hoàn toàn xa lạ với những khái niệm triết học phương Tây, đặc biệt là siêu hình học, chưa kể tâm lý học và lôgích); nên muốn hiểu nội dung của “being”, “có-đó”, đặc biệt ở đây trong khi nói quanh Heidegger, chúng ta phải trở về Sein Sein trong Heidegger phải được phân biệt với Dasein, và Dasein, đến sau cùng, có thể tạm hiểu là cuộc hiện sinh – là cuộc-sống-này (existence). Đến đây, chúng ta lại đi thêm một bước nữa vào mông lung (thực ra, tôi đã đi hai bước sai, để lùi về một bước với cái ít sai lầm hơn – đó là cách nói:  a là b, thế nhưng không phải hoàn toàn là b như chúng ta vẫn hiểu thế nào là b, đúng hơn a = b’); vì hiện sinh trong Heidegger lại có một nghĩa riêng. Dasein là hiện sinh, là “có đó”, hay dài dòng “có-đó thể hiện qua cách sống đời” như ông nói, có-đó như bị ném vào đời, có-đó giữa thời gian. Như thế xem ra gần như “hiện sinh” vì hiện sinh là có-đó trong đời này. Thế nhưng, lại đặc biệt nữa, Dasein không hiện sinh nhưng Dasein có hiện sinh của nó cho chính nó (Fürsichsein), khái niệm “có-đó của nó cho chính nó”, trước đó Hegel đã dùng là In-sich-Sein, và sau này chúng ta gặp lại être pour-soi trong Sartre. Cả Being and Time – với những ẩn dụ vặn bẻ đến mức không thể hiểu, và những từ ngữ mới tạo trong cố gắng muốn diễn tả những gì không thể diễn tả nổi – có thể xem như Heidegger viết để giải thích Dasein, nhưng vì đọc bài thơ, nên phải quanh quẩn một chút với Dasein, thật nhanh qua những khái niệm từ Being and Time [4]

Tối đen dần của thế giới không bao giờ đạt đến ánh sáng của hữu thể.
Chúng ta quá trễ với những vị gót và quá sớm với Hữu thể. Bài thơ của Hữu thể, mới chỉ bắt đầu, là con người.”
[Die Verdüsterung der Welt erreicht nie das Licht des Seyns.
Wir kommen für die Götter zu spät und zu früh für das Seyn. Dessen angefangenes Gedicht ist der Mensch.]

Khởi đi từ nhận định – hiện tượng (phenomena) không đơn giản chỉ là những dạng ngoài (appearances), ở đây Heidegger bỏ Kant, quay về triết học Hylạp, trong đó “phenomena” trỏ bất cứ gì “cho thấy chính nó”. Hiện tượng là những gì cho thấy chính nó với hữu thức. Heidegger theo đuổi một câu hỏi, lấy chính câu hỏi đó làm mục tiêu hướng dẫn – câu hỏi đó là – “ý nghĩa của hữu thể là gì”, vốn cũng vẫn là câu hỏi, là chủ đề nội dung của triết học; Từ câu hỏi này về hữu thể (Sein) và đi tìm trả lời cho câu hỏi này – Heidegger phân biệt những gì là để cho hữu thể là hữu thể (Sein) từ những hiện hữu của những thực thể nói tổng quát (Seindes). Và theo đó, dẫn chúng ta đến Dasein, nguyên có nghĩa là “có-đó”, nhưng Dasein không có yếu tính nào ngoài những gì nó có thể làm chính nó là  – nghĩa là nó không có bản chất cố định, hoặc khuynh hướng nào lâu dài hay bất biến nào. Dasein “điều mà nó hiểu hữu thể”. Thế giới mở ra cho chúng ta hiểu, qua và trong Dasein, thế giới “phơi mở” cho hiều không qua suy tưởng bằng khái niệm, mệnh đề và những trạng thái não thức. Con người và Dasein liên hệ ra sao? Chúng ta chỉ có thể nói chỉ con người mới có Dasein, và trong con người cũng không có gì nền tảng hơn nó, không có gì xứng đáng hơn Dasein cho con người dâng hiến đời người. Nếu hiểu Dasein Hữu thể của con người, thì hữu thể đó khác biệt với hiện sinh; vì hiện sinh là một vấn đề của hữu thể. Để giúp chúng ta đừng vội vàng lẫm lẫn, ông đưa thêm ra một từ mới “existenz”; để chỉ một “thứ” Hữu thể mà hướng về nó, Dasein có thể xử sự chính nó chững chạc cách này hay cách khác, và luôn luôn xử sự bản thân xứng hợp cách này hay cách khác. Và như nói ở trên “existenz” và “existence” đều khác với Dasein, Dasein không là hiện sinh (“existenz”, “existence”), nhưng Dasein hiện sinh của nó cho chính nó (Fürsichsein).

Dasein cũng có thể đơn giản định nghĩa là hiện hữu có ý thức về ý nghĩa của hiện sinh, hay sự tồn tại của chính nó, với thời gian như chỗ đứng của nó. Trong ý hướng thực tế này, nó chính là con người, là Hữu thể vì chỉ có con người mới đặt câu hỏi, suy ghĩ về sự sống của chính nó; nó có đó trong thế giới (In-der-Welt-sein). Chúng ta không biết có hình thức nào của sự sống có suy nghĩ về chính sự sống hay không. Chỉ có con người sống và đồng thời có ý thức về chính sự sống; điển hình chỉ có nó mới chôn những đồng loại giã từ đời sống, chấm dứt sự sống. Chôn cất như thế cho thấy ý thức về sự sống; đánh dấu sự kiện thôi không sống, một ai đó chết nghĩa là không còn có đó bên nhau (Mitsein) nữa – ý thức về chết cũng là ý thức về sống, như thế con người sống, hiện sinh, là có đó hướng về cái chết (Sein-zum-Tode).

Đó là nói – khá dài dòng – chạy theo Heidegger, ông cố gắng không dùng những từ “chủ thể” và “đối tượng”, nhưng muốn nói về con người, và nhấn mạnh vào sự khác biệt của nó với những gì không-người quanh nó, trong thế giới hiện tượng. Nếu chúng ta liều lĩnh, nói đơn giản nôm na, ông có ý muốn nói  – con người sống và khác với mọi sự sống vì nó suy nghĩ về sự sống của nó – nó sống hay đời sống của con người là một cách thế ở đời, bên nhau, giữa không và thời gian. Trong đời sống của nó, trong hiện sinh của nó, tồn tại của nó, nó có một tính chất là một-gì đó luôn luôn quan tâm về chính nó (thí dụ, ý thức về những giả tưởng của chúng, như linh hồn, tự ngã, lương tâm). Đời sống của nó, lấy thí dụ, không như cây ngoài cửa sổ tôi, hay ghế tôi ngồi; nhưng nó phải luôn bận tâm vướng víu, đến nỗi không thoát được quan tâm, ý thức thường trực về chính nó. Cấu trúc cơ bản của Dasein là Hiện sinh-trong-thế giới. Hiện sinh và thế giới hiểu như ông viết: “Dasein là trong một cách thức mà về phần một gì đó nó nhận hiểu một gì đó như Hiện sinh... nó làm như thế với thời gian như vị trí của nó”; đến đây khi định nghĩa Dasein trong Being and Time, ông dẫn chúng ta đến hai khái niệm khác: thời giannhận hiểu.

“Khi vào một ngày mùa hè, con bướm đậu yên trên hoa và cánh khép, đong đưa với nó trong
gió đồng cỏ....
Tất cả can đảm của con tim chúng ta là sự vang vọng đáp ứng với tiếng gọi đầu tiên của Hữu thể vốn nó tụ họp suy nghĩ của chúng ta vào trong cuộc chơi của thế giới.”
[Wenn am Sommertag der Falter sich auf die Blume niederläßt und, die Flügel geschlossen, mit ihr im Wiesenwind schwingt ...
Aller Mut des Gemüts ist der Widerklang auf die Anmuttung des Seyns, die unser Denken in das Spiel der Welt versammelt.]

Định nghĩa trên khiến chúng ta chú ý ở đây – vì nó cho chúng ta cấu trúc cơ bản của Dasein ông vẽ ra: Dasein là hiện sinh trong thế giới  (Being-in-the-world) – là có-đó trong thế giới. Có-đó trong thế giới là một hiện tượng đồng nhất thấy khắp nơi như nhau (unitary phenomenon), nhưng những cố gắng đầu tiên của Heidegger, theo phương thức của hiện tượng học, là để cho “thế giới”, “có-đó”, “có-trong” tự chúng thể hiện, như thế chúng ta có thể thấy rõ ràng hơn những gì những điều này có nghĩa với Dasein: “lộng lẫy nổi bật đó trong tính-ngày-thường của chúng”. Với Heidegger, khi Dasein kinh nghiệm sự vật như thế nào thì đó là “không gian”. Sự vật “xa” hay “gần”, trên hay dưới tùy theo Dasein quan tâm với chúng trong mỗi bất kỳ lần nào đó. Trong thời gian, con người lần hồi khám phá ra không gian, qua liên hệ với những gì là những hiện tượng quanh mình cùng có-đó trong thế giới.

Heidegger nhấn mạnh vào khái niệm “có sẵn trong tay” (zuhandenready-to-hand) – Mọi sự vật việc trong thế giới đều có tính có sẵn trong tay, và thế giới hiện ra, hé lộ ra “trong bất kỳ gì có sẵn trong tay, thế giới thì luôn luôn có đó”. Như ông nói, thế giới này “không được sáng tạo lần đầu tiên vì (chúng ta) biết đến nó, hay nó không nổi lên một cách nào đó mà trong đó thế giới tác động như một chủ thể”. Đúng hơn Dasein bắt gặp thế giới, nó có một ý nghĩa xứng đáng ('significance') cho Dasein – một Hữu thể mà hiện sinh của nó thì sắp ném tung ra khắp nơi trong thế giới.

“Khi qua một lỗ hổng trong cơn mưa-đầy-mây-dày rọi chiếu một tia sáng mặt trời thình lình lướt đi trên sự u ám của đồng cỏ. . . .
Chúng ta không bao giờ đi đến những suy tưởng. Chúng đến với chúng ta. Đó là giờ thích hợp của ngôn từ.”
[Wenn unter aufgerissenem Regenhimmel plötzlich ein Sonnenschein über das Düstere der Matten gleitet ...
Wir kommen nie zu Gedanken. Sie kommen zu uns. Das ist dis schickliche Stunde des Gesprächs.]

5.
Quan niệm về thơ, nằm trong quan niệm lớn hơn về nghệ thuật và con người. Đi từ thẩm mỹ học đưa về bản thể học, Heidegger cho chúng ta thấy những triết gia lớn của phương Tây, từ Plato, Aristotle, đến Descartes, Kant đã đều chạy theo và quá chú trọng tìm hiểu những gì họ cho là bất biến, tưởng là vĩnh cửu, thừa nhận là phổ quát; dù đúng sai, nhưng đều lầm lạc vì đã sao lãng những gì khác quan trọng, bỏ qua những gì thực sự có ý nghĩa hơn với con người, lạc đường trên hành trình tìm trả lời cho câu hỏi – “ý nghĩa của hữu thể là gì”, ông đi đến thừa nhận yếu tính của thế giới con người – là thoáng qua, nhất thời và nằm-trong-thời gian, là đi đến cái chết; nghĩa là không gì đứng một mình, nhưng bên-nhau và liên hệ với trước và sau. Ở đây, khá gần gũi với tư tưởng Zen, Heidegger nhận hiểu “tự ngã” như một hiện tượng nhất thời, thôi không còn một “thực thể”, vốn từ lâu đã nhầm lẫn xem như vượt thời gian, bất biến, là khái niệm cơ bản trong nội dung siêu hình học phương Tây, và là nguyên lý nền tảng của thần học Kitô.

Chúng ta về lại bài thơ của Heidegger. Đoạn cuối – cả hình thức lẫn nội dung – nhắc chúng ta những bài haiku:

Rừng trải rộng
khe suối lao sâu
Đá kiên gan
Sương khuếch tán

Đồng cỏ chờ đợi
Suối đọng nước
Gió trụ
nàng-Thơ phước lành

Thiên nhiên quanh đây, trong lần đi bộ một mình này, là rừng, suối, đá, sương, ...  đều trầm lặng thanh thản; cỏ trên đồng, gió trên không, nước trong suối, ...  vẫn đều chờ đợi chúng ta khám phá, Tất cả phơi mở với con người, mang con người đến với chúng, “cho thấy chính nó”, và cũng cho thấy con người thuộc về trần gian này. Chúng đều như sẵn sàng hòa âm với suy tưởng con người ở đỉnh cao của trầm mặc “Cấu trúc địa hình này bảo Hữu thể những nơi nào là nó thực sự có mặt”Hữu thể thực sự có mặt ở đây; hãy bắt đầu bài thơ Hữu thể! và đó là Con người “Chúng ta không bao giờ đi đến những suy tưởng. Chúng đến với chúng ta. Đó là giờ thích hợp của ngôn từ”. Nương theo Heidegger như thế, chúng ta mạnh dạn kêu gọi:

Người suy nghĩ như thi sĩ,
hãy lên tiếng đi!
lời ca về hữu thể

[Ở đây, giới thiệu một bài thơ, khó lòng có thể gọi là xuất sắc, có chăng là độc đáo về ý tưởng, tôi muốn tìm một biện chính cho người thi sĩ chân chính – vì họ có-đó giữa đời nên không thể không sống-đời; không thể im tiếng, không thể đừng tìm về hữu thể vẫn phơi mở quanh đây, không thể vẫn sống mà không suy-tưởng; vì thi ca vốn ban đầu là sự phơi mở của hữu thể.
– Và trả lời câu hỏi ở trên: trong một thời khốn cùng (như của chúng ta vừa qua) "để làm gì những thi sĩ ấy?...].

6
Một câu hỏi khác nêu ra ở đâyNếu người suy nghĩ cũng là thi sĩsuy tưởng là thơ – tại sao quan niệm đó xa lạ với chúng ta? Tôi có nên nêu ra không? Vì nếu trả lời, sẽ phải bắt đầu từ đâu, trong chiều hướng nào?

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May/2013)


[1] Martin Heidegger. Poetry, language, thought (Thơ, ngôn ngữ, tư tưởng); Albert Hofstadter dịch và giới thiệu. New York: Harper & Row, 1971.
Aus der Erfahrung des Denkens (Pfullingen: Neske, 1954). Ghi chú cuối bài thơ cho biết Heidegger viết năm 1947.

[2] Một loại hoa nhỏ (tên khoa học Cistus) mọc từng bụi, thường có hoa đơn, năm cánh, và có nhiều màu khác loại, vàng, hồng, tím, trắng

[3] Xem thêm Plato Dụ ngôn cái Hang; và Roman Jacobson, Ngữ học và Thi học, theo bản tạm dịch tiếng Việt của tôi.
[4] Tôi dùng bản tiếng AnhHeidegger, Martin, Being and Time (Trans: Macquarrie & Robinson) Blackwell, Oxford, 1962