Thursday, September 13, 2012

Nietzsche - Về Lai lịch của Đạo đức (10)


Về Lai lịch của Đạo đức
(On the Genealogy of Morality
Zur Genealogie der Moral)
Friedrich Nietzsche










“Có tội”, “Lương tâm Cắn Rứt”,  và những Vấn đề liên quan

11.
  Bây giờ, một đề cập không đáng về những nỗ lực gần đây để tìm nguồn gốc của công lý ở một chỗ nào khác, – cụ thể là trong ressentiment. Một lời vào tai của những nhà tâm lý học, giả định họ có khuynh hướng nghiên cứu ressentiment một lần cho thật sát chặt: thứ cây-thân-cỏ này lan tràn lớn dậy nhanh nhất ngày nay giữa những người theo thuyết chủ trương không chính phủ và những người bài-Dothái [1], do đó, nó ra hoa như nó đã vẫn luôn ra hoa, trong bí mật, giống như hoa tím nhưng với một mùi hương khác biệt. Và đúng như giống nhau luôn luôn làm nẩy sinh giống nhau, sẽ đi đến không có gì ngạc nhiên để tìm thấy những cố gắng lại một lần nữa đến từ những giới này, cũng thường xuyên như trước đây – xem phần 14 [trong Luận văn thứ Nhất] ở trước, để thánh hóa sự trả thù với thuật ngữ công lý – mặc dù công lý đã cơ bản chỉ là một phát triển hơn nữa của tình cảm bị đối xử sai trái – và đến muộn, để hợp pháp hóa với những phản ứng trả thù tình cảm nói chung, một lần và tất cả. Điều kể sau là một gì đó mà ít nhất tôi không đồng ý với nó: nhìn theo hướng toàn bộ vấn đề sinh học (trong đó, giá trị của những xúc cảm này đã bị hạ thấp giá, cho đến giờ), tôi thậm chí xem nó như một ưu điểm. Tất cả gì tôi muốn chỉ ra là một sự kiện rằng sắc thái mới này của sự quân bình khoa học (vốn nó thiên vị căm ghét, ghen tị, phẫn hận, nghi ngờ, ác cảm [2] và báo thù) đâm nhánh từ tinh thần của chính ressentiment. Tính “quân bình khoa học” này ngay lập tức dừng lại, và đảm nhận những khía cạnh của oán thù chết người và định kiến, ​​ngay giây phút nó phải đối phó với một tập hợp khác biệt của những cảm xúc, vốn đối với não thức của tôi, chúng có nhiều giá trị sinh học lớn hơn so với (giá trị) của những phản ứng đó, và do đó xứng đáng thực sự được đánh giá một cách khoa học, được đánh giá cao: cụ thể là những xúc cảm sống động tích cực, loại như thèm khát với nắm quyền làm chủ, với tham lam, và với thứ tương tự. (E. Dühring, Giá trị của Đời sống. Một giảng khóa về Triết học, về cơ bản, tất cả nó) [3].


Như thế là quá nhiều cho phản đối tổng quát của tôi với khuynh hướng này; nhưng về phần phát biểu đặc biệt của Dühring rằng vị trí của công lý thì tìm thấy được trong địa hạt của tình cảm phản tác động, vì lợi ích của sự chính xác, chúng ta phải không khách sáo thay thế điều này với một phát biểu khác: địa hạt cuối cùng bị tinh thần của công lý chinh phục là (địa hạt) của tình cảm phản ứng lại! Nếu như đã xảy ra thực sự rằng con người ngay thẳng vẫn cứ là ngay thẳng dẫu cho với một ai đó là người đã sai trái với anh ta (và không chỉ là lạnh lẽo, chừng mực, cách biệt và lãnh đạm: tư cách ngay thẳng luôn luôn là một thái độ tích cực), nếu ngay thẳng và mắt nhìn phán đoán, nhìn không sai lệch với tính khách quan cao cả sáng sủa, vừa thấu xuốt và thương xót, thì không lu mờ ngay cả khi đối mặt với tổn thương cá nhân, với khinh miệt và với nghi ngờ, thế đấy, đó là một mảnh của sự hoàn hảo, là hình thức cao nhất của sự làm chủ tinh thông có được trên mặt đất, – và thậm chí là một gì đó mà chúng ta sẽ là khôn ngoan đừng trông mong, và chắc chắn nên thấy khó khăn để tin. Chắc chắn, về trung bình, thậm chí một liều nhỏ của sự hung hăng, của ác ý hoặc của sự nói ngầm bóng gió là đủ để làm cho con người ngay thẳng nhất thấy hết sức cáu giận, và đuổi sự tiết chế ra khỏi cái nhìn của mình. Con người hoạt động, hung hăng, mưu mẹo hơn thì sau đó vẫn một trăm bước gần công lý hơn con người là người phản ứng, anh ta đơn giản không cần chỗ đặt một diễn giải dối trá và thiên kiến ​​về đối tượng của sự chú ý của anh ta, giống như con người đã phản ứng đã cần, đã phải làm. Trong thực tế, điều này giải thích lý do tại sao con người hung hăng, như là mạnh hơn, can đảm hơn, cao thượng hơn, đã luôn luôn có một cái nhìn trong sáng hơn, một lương tâm tốt hơn về phía anh ta: về mặt kia, là dễ dàng để đoán ai là người có phát minh về “lương tâm cắn rứt” trên lương tâm của mình, – người của sự ressentiment!

Cuối cùng, chỉ cần đảo mắt bạn trong lịch sử: dưới vòm trời nào, cho đến giờ, có sự đối đãi toàn bộ của công lý, và nhu cầu thực sự cho công lý, cư trú ở đâu? Với những người là người phản ứng, có lẽ chăng? Không có đến trong dẫu mảy may: nhưng chỉ có với (người) hoạt động, mạnh mẽ, tự nhiên và tích cực. Nói theo lịch sử, công lý trên mặt đất– Tôi nói điều này với sự khó chịu của người kích động đã nhắc đến ở trên (là người tự mình cũng một lần thú nhận: “học thuyết về sự trả thù đã đan dệt lối của nó qua tất cả công trình của tôi và những hoạt động như sợi chỉ đỏ của công lý) [4] – tương ứng với trận chiến, trong đó, chống lại tình cảm phản ứng, chiến tranh tiến hành chống lại cùng một chúng, về phần của những lực lượng năng động và hung hăng, vốn đã tiêu dùng một phần sức mạnh của chúng trong cố gắng ngăn dừng lại sự tràn lan của tính thương cảm (pathos) phản ứng, để giữ nó trong kiểm soát và trong những giới hạn, và để đẩy tới một thỏa hiệp với nó. Ở khắp mọi nơi mà công lý được thực hành và duy trì, sức mạnh mạnh mẽ hơn có thể được thấy trong tìm kiếm cách thức để đem đến chấm dứt những tàn phá vô nghĩa của ressentiment giữa những người thấp kém hơn nó (cho dù là những nhóm hay những cá nhân), một phần bằng nâng đối tượng của ressentiment lên khỏi những bàn tay của trả thù, một phần bằng thay thế sự trả thù với một đấu tranh chống lại những thù địch của hòa bình và trật tự, một phần bằng tiến hành giải pháp bồi thường, đề nghị nó, đôi khi buộc thi hành nó, và một phần bằng cách thúc đẩy những tương đương nhất định nào đó cho những sai trái vào thành một khuôn mẫu mà ressentiment, từ đó về sau, phải nhận vào lưu ý cân nhắc. Tuy nhiên, điều dứt khoát nhất là những thẩm quyền cao hơn có thể đặt ra và ép buộc thực thi chống lại sức mạnh mặc dầu còn mạnh hơn của những tình cảm chống đối và hằn thù– và họ làm điều ấy liền ngay khi họ đủ mạnh – là thiết lập một hệ thống pháp luật, công bố có tính chất mệnh lệnh về những gì được cho phép, trong mắt họ, như là công chính, và những gì được kể là bị cấm, là bất công: một khi điển luật pháp lý được đặt đâu vào đấy, khi xử lý những hành động vi phạm và tự ý độc đoán chống lại cá nhân, hoặc những nhóm, như một tội phạm, như sự vi phạm pháp luật, như sự nổi dậy chống lại uy quyền cao hơn chính họ, họ đánh lạc hướng sự chú ý khỏi tổn hại đã thực hiện bởi những vi phạm loại như vậy, và cuối cùng là đạt được đối ngược với những gì sự trả thù bày ra định làm, vốn chỉ cần nhìn và quan tâm công chính như quan điểm giá trị của bên bị thương tổn: – từ đó về sau mắt nhìn được huấn luyện để có một diễn giải phi cá nhân về hành động, ngay cả mắt nhìn của bên bị thương tổn (mặc dù, như đã nói, điều này xảy ra cuối cùng). –

Bởi vậy “công lý” và “bất công” chỉ bắt đầu từ thời điểm khi một hệ thống pháp luật được thiết lập (và không, như Dühring nói, từ thời điểm khi thương tổn đã gây). Nói về “công lý” và “bất công” theo cách như vậy là không có nghĩa gì cả, một hành động gây thương tổn, bạo động, bóc lột, hay phá hoại không thể  là “bất công” theo ý hướng giống như vậy, vì những chức năng hoạt động của sự sống yếu tính là trong một cách thức gây thương tổn, bạo động, bóc lột, hay phá hủy, hoặc ít nhất đây là những tiến trình cơ bản của nó, và không thể nghĩ về (sự sống) với không có những đặc điểm này. Người ta phải thú nhận với chính mình một gì đó thậm chí còn khó nuốt hơn: rằng đứng từ điểm nhìn cao nhất của sinh học, nhìn thấy những tình trạng của sự hợp pháp không bao giờ có thể là bất cứ gì, nhưng chỉ là những tình trạng khác thường ngoại lệ, vì những hạn chế thành phần của ý dục thực sự với đời sống [5], vốn tìm kiếm quyền lực và hướng đến mục đích toàn bộ của chúng, chúng tự phụ thuộc như những biện pháp đơn lẻ, đó là nói rằng, như là một phương tiện của sự tạo lập những đơn vị lớn hơn của quyền lực. Một hệ thống pháp luật được thai ngén như có chủ quyền tối cao và tổng quát, không như một phương tiện để sử dụng trong chiến đấu giữa những đơn vị quyền lực, nhưng như một phương tiện chống lại chiến đấu nói chung, thay vì giống khẩu hiệu theo lối công xã của Dühring rằng tất cả mỗi ý chí nên xem mỗi ý chí khác như bình đẳng với nó, điều này sẽ là một nguyên tắc thù địch với cuộc sống, một nỗ lực ám sát tương lai của con người, một dấu hiệu của mệt mỏi và một con đường bí mật  dẫn đến hư không. –


12.
Bây giờ một lời khác về nguồn gốc và mục đích của sự trừng phạt – hai vấn đề vốn riêng biệt, hoặc phải riêng biệt: không may là người ta thường trộn chúng với nhau. Trong vấn đề này cho đến nay, những nhà viết lai lịch  đạo đức đã phản ứng ra sao? Một cách ngây thơ, như là thói thực hành quen thuộc của họ: – họ làm nổi bật một số ‘mục đích’ trong trừng phạt, lấy thí dụ, trả thù hoặc ngăn chặn, sau đó ngây thơ đặt mục đích ở lúc bắt đầu, như causa fiendi [6] của sự trừng phạt, và thế là – làm đã xong. Nhưng “mục đích của pháp luật”, là điều tuyệt đối cuối cùng chúng ta nên áp dụng đối với lịch sử của sự xuất hiện của pháp luật: trái lại, không có đề nghị quan trọng hơn cho tất cả những loại lịch sử, hơn là điều chúng ta đi tới được đó chỉ với nỗ lực lớn lao nhưng là điều thực sự phải nên đạt được, – cụ thể là nguồn gốc của sự xuất hiện của một điều gì đó và sự hữu ích cuối cùng dẫn đến của nó, sự ứng dụng thực tế của nó và sự bao gồm nó vào một hệ thống của những cứu cánh, là tách biệt như đầu này đối với đầu kia vòm trời [7]; rằng bất cứ điều gì trong hiện hữu, bằng cách nào đó xảy ra, thì liên tục được diễn giải làm mới lại, trưng dụng làm mới lại, chuyển đổi và chuyển hướng đến một mục đích mới bởi một quyền lực cao mạnh hơn nó; rằng tất cả mọi sự việc xảy ra trong thế giới hữu cơ bao gồm sự áp đảo, sự thống trị, và lần lượt khi đến phiên chúng, áp đảo và thống trị bao gồm diễn dịch lại, điều chỉnh, trong tiến trình trong đó có “ý nghĩa” trước đây của chúng [Sinn] và “mục đích” phải nhất thiết bị che tối đi hoặc bị xóa sạch hoàn toàn. Bất kể rằng bạn đã hiểu rõ hoàn hảo cho đến đâu đi nữa về sự hữu ích của bất kỳ cơ quan sinh lý nào (hoặc cơ chế pháp lý, phong tục xã hội, thói dùng chính trị, hình thức nghệ thuật, hoặc nghi thức tôn giáo), kết quả qua đó vẫn là bạn chưa nắm được nó đã xuất hiện như thế nào: dù điều này nghe có thể không thoải mái và khó vui với tai người già cả hơn, –  vì qua những thời đại, người ta đã tin rằng mục đích hiển nhiên một sự việc, sự tiện ích của nó, hình và dạng của nó, là lý do cho hiện hữu của nó, mắt được làm để thấy, tay để nắm bắt.

Thế nên, người ta cũng nghĩ rằng sự trừng phạt đã tiến hóa với mục đích của trừng phạt. Nhưng mỗi mục đích và cách sử dụng chỉ là một dấu hiệu rằng ý dục với quyền lực đã đạt được quyền làm chủ trên một gì đó kém mạnh mẽ hơn, và đã áp đặt, gây ấn tượng mạnh mẽ trên một-gì đó, ý tưởng [Sinn] riêng của nó về một chức năng sử dụng; và toàn bộ lịch sử của một “sự vật”, một cơ quan, một truyền thống, có thể đến mức độ này, là một chuỗi liên tục của những dấu hiệu, liên tục phơi bày những diễn giải và những thích nghi mới, nguyên nhân trong đó cần không được kết nối ngay cả với nhau, nhưng thay vì đôi khi chỉ theo dõi và thay thế nhau một cách ngẫu nhiên. Sự “phát triển” của một “sự vật”, một truyền thống, một cơ quan thì do đó chắc chắn không phải là sự thăng tiến [8] của nó hướng tới một mục đích, lại còn ít hơn như nếu nó là một progressus lôgích, lấy tuyến đường ngắn nhất với năng lượng tiêu dùng ít nhất và ít tốn kém nhất, thay vào đó nó là một kế tục, ít hay nhiều sâu sắc hơn, những tiến trình độc lập với nhau, hoặc nhiều hay ít hơn, của sự phục tùng rút ra trên sự vật, cộng thêm vào với điều này là những kháng cự gặp phải tất cả mỗi lần, những chuyển hóa thử cố gắng cho mục đích phòng vệ và phản tác động, và cũng nữa, những kết quả của những biện pháp phản ứng đối phó thành công. Hình thức thì uyển chuyển tuôn chảy, “ý nghĩa” [Sinn] thậm chí lại còn hơn vậy. . .

Cũng không khác biệt ở bên trong bất kỳ tổ chức sinh vật cá nhân nào: tất cả mọi dịp, tổng thể đều phát triển một cách nhận biết được, “ý nghĩa” [Sinn] của những cơ quan cá nhân chuyển đổi, – đôi khi sự phá hủy một phần của những cơ quan, sự giảm thiểu trong số lượng của chúng (lấy thí dụ, bằng sự phá hủy những phần trung gian) có thể là một dấu hiệu của sức mạnh ngày càng tăng và sự toàn hảo. Để nói rõ ràng: ngay cả sự giảm thiểu một phần trong sự hữu ích, sự phân rã, và thoái hóa, mất đi về ý nghĩa [Sinn] và mục đích chức năng, trong ngắn hạn chết, làm nên những điều kiện cho sự progressus đúng thực: luôn luôn xuất hiện, như nó thể hiện, trong hình thức của ý dục và cách tiến đến quyền lực lớn mạnh hơn và luôn luôn thoát nổi lên một cách chiến thắng trên thiệt hại của vô số những lực lượng nhỏ hơn. Số lượng của sự ‘tiến bộ’ có thể thực sự được đo lường ứng theo như bao nhiêu đã phải hy sinh cho nó, sự hy sinh của con người từng khối cho sự thịnh vượng của duy nhất một giống người mạnh mẽ hơn của con người – đó sẽ là sự tiến bộ. . . –

Tôi đặt nhấn mạnh trên điểm chính yếu này của phương pháp lịch sử, đặc biệt vì nó chạy ngược lại, đúng với bản năng và thời thức thắng trội, vốn sẽ thà đi đến hiểu biết thỏa hợp với tính ngẫu nhiên tuyệt đối, và thậm chí máy móc vô nghĩa của tất cả những những sự kiện, hơn là với lý thuyết rằng một ý chí quyền lực đã hành động trong tất cả những gì xảy ra. Cái phương thức ứng xử đặc biệt mang tính dân chủ của tư cách chống lại tất cả mọi sự việc vốn chi phối và muốn chi phối, chủ nghĩa ghét-luật-lệ-cai-trị (misarchism) [9] hiện đại (để ghép một từ xầu cho một điều xấu) đã dần dần định hình và khoác áo đẹp đẽ như trí tuệ, trí thức nhất, quá nhiều như thế khiến nó ngày nay, đã từng chút một, thâm nhập những khoa học chặt chẽ, xem dường khách quan nhất, và được cho phép làm như vậy; quả thực vậy, tôi nghĩ rằng nó đã trở thành chủ nhân của toàn bộ sinh lý học và sinh học, với thiệt hại cho chúng, dĩ nhiên, bằng cách lấy biến đi khái niệm cơ bản của chúng, đó là hoạt động thực sự. Về mặt khác, áp lực của phương thức ứng xử đặc biệt này thúc ép “sự thích nghi” vào trong nền trước nổi bật, vốn nó chỉ là một hoạt động thuộc hạng nhì, chỉ là một phản ứng, thực vậy tự thân đời sống đã được định nghĩa như là một thích nghi bên trong, ngày càng hiệu quả hơn, với những hoàn cảnh bên ngoài (Herbert Spencer). Nhưng thế này là hiểu sai lệch về bản chất của đời sống, ý dục với quyền lực của nó, chúng ta bỏ qua sự quan trọng chính yếu là những sức mạnh tự phát, gây hấn, bành trướng, diễn dịch lại, chuyển hướng lại, và hình thành vốn có, mà “thích ứng” chỉ đến sau chúng, sau khi chúng đã có tác dụng của chúng; (như thế là) trong chính tổ chức sinh vật, vai trò chi phối của những chức năng cao nhất này, - trong ai có ý chí sống thì hoạt động và tự thể hiện, - đã bị từ chối. Người ta nhớ những gì Huxley [10] trách cứ Spencer, – với “chủ nghĩa hư vô quản trị hành chính” của ông ta : nhưng chúng ta giải quyết với nhiều hơn là chỉ đơn thuần “quản trị hành chính”. . . 

Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất 
(Aug/2012)





[1] anarchist và anti-Semites – anarchy: thuyết chủ trương không thiết lập chính phủ quản lý quốc gia, xem như một lý tưởng chính trị, vì cho cá nhân sự tự do tuyệt đối.
[2] tiếng Pháp: rancune - trong nguyên bản
[3] Eugen Karl Dühring (1833–1921), triết gia, chính trị kinh tế gia người Đức, mù từ năm 30 tuổi ... Thư mục của Nietzsche gồm: Tự truyện của Dühring, Werth des Lebens (Value of Life, 1867) và Cursus der Philosophie (Course in Philosophy, 1875). Dühring tự nhận là người gây phong trào bài-Dothái và là khuôn mặt chính của vận động bài-Dothái ở nước Đức.
Dühring là một người cuồng nhiệt yêu nước Đức, ghét Goethe (tiêu biểu cho văn hóa với nhiều nguồn) và cổ điển Hylạp; Ngày nay ông tên ông chỉ còn được nhắc như người đáng chê cười trong những bài viết của K. Marx và F. Engels, và như trên đây của Nietzsche.
[4] [E. Dühring, Sache, Leben, und Feinde (Karlsruhe, Leipzig, 1882), p. 293.]
[5] the will to life: ý dục tham sống– tôi hiểu ý dục như ý chí nhưng với tham lam  với lòng ham muốn – với đời sống
[6] Nguyên nhân của nguồn gốc.
[7] toto coelo - trong nguyên văn
[8] progressus - trong nguyên văn
[9] Misarchism: the hatred of rule, Hatred of or opposition to government in any form; the doctrine that government as such is evil or an evil.
[10] Thomas Henry Huxley (1825–1895) Nhà sinh vật học người Anh, còn nổi tiếng vì chủ trương bảo vệ thuyết tiến hóa của Charles Darwin, đến mức ông tự xưng với ý - Tôi là con chó giống thuộc giống bulldog (hung dữ) để bảo vệ học thuyết Darwin (“I am Darwin's bulldog”). Ông là người đặt ra từ “agnosticsim” - Thuyết không thể biết.